Bản án 670/2019/HS-PT ngày 06/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 670/2019/HS-PT NGÀY 06/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 600/2019/TLPT-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Như T và Mai Việt Th do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 127/2019/HS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình, Hà Nội.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. NGUYỄN NHƯ T, sinh ngày 06/8/19XX tại Hà Nội; ĐKHKTT: EX tập thể Y N D, phường P X, quận Ba Đình, TP Hà Nội; nơi cư trú: số X/Y/Z T A, phường P X, quận Ba Đinh, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Vĩnh N và bà Nguyễn Thị N (đã chết); có vợ Lê Thị T và 01 con sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

- Bản án số 248/HSST ngày 17/6/2003, TAND quận Hai Bà Trưng xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 2 tội là 27 tháng;

- Bản án số 25/HSST ngày 06/3/2006, TAND thị xã Hà Đông xử phạt 18 tháng tù về tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”;

- Bản án số 191/2011/HSST ngày 29/8/2011, TAND quận Cầu Giấy xử phạt 30 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Ra trại ngày 04/3/2013;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/11/2018, có mặt.

2. MAI VIỆT TH, sinh ngày 26/10/19XX tại Hà Nội; ĐKHKTT: số X phố N Q, TDP Y phường Q T, quận Hà Đông, TP Hà Nội; nơi cư trú: ngõ X tập thể chế biến gia súc xã A K, huyện Hoài Đức, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Việt C và bà Vũ Thị Hồng L; có vợ Đậu Diễm N và 01 con sinh năm 2017; tiền án tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2014 Công an quận Hà Đông xử phạt hành chính về hành vi “Gây tổn hại sức khỏe của người khác”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/11/2018 đến ngày 08/5/2019, hiện tại ngoại có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13h45' ngày 28/11/2018, Nguyễn Như T điều khiển xe máy Honda Dream BKS: 29H5-39XX chở Mai Việt Th đi lòng vòng quanh các tuyến phố thấy sơ hở thì sẽ cùng nhau trộm cắp xe máy. Khi đến phố Kim Mã hướng đi Nguyễn Thái Học, điểm đối diện UBND phường Kim Mã số 248 Kim Mã, phường Kim Mã, quận Ba Đình, Hà Nội, T phát hiện 01 xe máy Honda SH: BKS: 30N2-52XX của anh Lê Ngọc T (SN: 19XX; trú tại: X/Y/Z K T, Đống Đa, Hà Nội) đang dựng trên vỉa hè trước cổng UBND phường Kim Mã không có người trông giữ, thấy có điều kiện để trộm cắp T liền ra hiệu cho Th, Th quan sát chiếc xe trên và hiểu ý. Sau đó T điều khiển xe máy vòng sang đường phi lên vỉa hè và dừng lại cách vị trí chiếc xe máy Honda SH khoảng 1m về bên trái để cảnh giới. Th xuống xe T lại gần T lại gần chiếc xe SH, cầm vào tay lái bên trái của xe, lắc cổ xe kiểm tra thì thấy khóa cổ, Th dùng đùi phải áp vào phần yên xe máy để lùi xuống đường thì thấy bánh sau xe bị khóa không lùi được. Lúc này tổ công tác Công an phường Kim Mã tuần tra trên địa bàn phát hiện khống chế T, còn Th bỏ chạy được khoảng 50m về hướng ngã tư Kim Mã - Núi Trúc thì bị bắt giữ. Tổ công tác đưa T, Th về trụ sở Công an phường Kim Mã để làm rõ.

Tại cơ quan điều tra Mai Việt Th và Nguyễn Như T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và khai đã cùng nhau thực hiện thêm 02 vụ trộm cắp xe máy khác trên địa bàn phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 6h00' ngày 21/11/2018, Nguyễn Như T điều khiển xe máy chở Mai Việt Th đi đến khu vực ngã tư phố Lê Hồng Phong - Hùng Vương, phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội. Tại đây T và Th phát hiện thấy trên vỉa hè trước cửa số nhà 18C Lê Hồng Phong có dựng 01 chiếc xe máy Honda Dream BKS: 31.9XX.U6 của chị Hoàng Thu S (SN: 19XX, trú tại: Số X ngõ Y H H T, Ba Đình, Hà Nội) không có người trông giữ, cả hai có ý định trộm cắp chiếc xe trên. T điều khiển xe máy dừng cách chiếc xe Honda Dream khoảng 3m về phía Đội Cấn để cảnh giới và bảo Th “xuống xem xe này lấy được không”. Th xuống xe T lại gần chiếc xe kiểm tra thấy xe không khóa cổ, không khóa càng, Th liền dắt bộ chiếc theo hướng phố Lê Hồng Phong ra phố Ngọc Hà, T điều khiển xe máy đi theo sau. Khi đến đoạn gần Công viên bách thảo thì cả hai dừng lại, Th bảo T đưa tuốc nơ vít trong cốp xe của T cho Th, Th dùng tuốc nơ vít cạy đèn chiếu sáng ở đầu xe rồi rút dây điện để vô hiệu hóa ổ khóa điện và đạp nổ máy được. T và Th điều khiển xe về nhà T tại phố Tân Ấp, Phúc Xá, Ba Đình để cất giấu. Tại đây, T đã tháo BKS: 31.9XX.U6 của chiếc xe Honda Dream vứt đi, thay bằng BKS: 29H5-39XX.

Vụ thứ hai: Trước khi Mai Việt Th và Nguyễn Như T cùng nhau trộm cắp chiếc xe máy Honda SH vào ngày 28/11/2018 tại phường Kim Mã. Trước 3

đó khoảng 10h00' cùng ngày, Th đi xe ôm đến trạm trung chuyển xe buýt Kim Mã - Ba Đình thì gọi điện cho T và nói “ anh có rảnh không, qua đón em đi chợ” (có nghĩa là đi tìm xe máy sơ hở rồi cùng nhau trộm cắp). T đồng ý và điều khiển xe máy Honda Dream BKS: 29H5-39XX đến đón Th và chở Th đi loanh quanh trên các tuyến phố. Khi T và Th đi đến phố Chu Văn An, phường Điện Biên, quận Ba Đình thì phát hiện thấy chiếc xe máy Honda Wave Alpha màu xanh BKS: 89E1-409.XX của anh Nguyễn Văn T (SN: 19XX; trú tại: Thôn N N, xã T T, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) đang dựng trên vỉa hè trước cổng số 7 Chu Văn An không có người trông giữ. T dừng xe máy ở lòng đường (cách vị trí chiếc xe khoảng 4m) để cảnh giới, Th xuống xe đi bộ T lại gần chiếc xe kiểm tra thì thấy xe không khóa cổ khóa càng, Th thấy vam phá khóa mang theo từ trước ra để phá ổ khóa điện xe máy thì phá được ổ khóa điện. Th liền ngồi lên xe nổ máy điều khiển đi theo hướng phố Kim Mã ra phố Núi Trúc, T điều khiển xe máy đi theo, khi đến 18 Núi Trúc, Th vào gửi xe máy vừa trộm cắp được tại bãi xe Xí nghiệp kinh doanh nước sạch Ba Đình ở 18 Núi Trúc gửi và nhận vé gửi xe S.90. Gửi xe xong Th đi ra T chở Th đi theo hướng Kim Mã ra Nguyễn Thái Học tiếp tục tìm xe máy sơ hở để trộm cắp. Khi cả hai đang thực hiện hành vi trộm cắp xe Honda SH BKS: 30N2- 52XX trước cổng UBND phường Kim Mã thì bị phát hiện bắt giữ.

Tang vật thu giữ gồm:

- Thu giữ của Mai Việt Th: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 216 màu đen có số seri1: 357326088418775, seri2: 357326089418774 , 01 tay còng kim loại màu trắng dài 15cm, có khớp nối hình vuông để gắn đầu vam; 01 đầu vam kim loại màu trắng, một đầu được dập dẹt, một đầu hình lục giác dài 8cm; 01 đầu vam kim loại màu trắng một đầu dập, dẹt hai cạnh, một đầu hình trụ tròn ở giữa có quấn băng dính màu đen dài 9cm; 01 khớp nối hình trụ tròn kim loại màu trắng dài 3cm; 01 hộp đựng kính mắt màu đen - xám; 01 vé xe số S.90 của Công ty nước sạch Hà Nội và số tiền 11.900.000 đồng, 01 xe máy Yamaha Mio màu đỏ đã qua sử dụng BKS: 29U1-064.XX; 01 xe máy Yamaha Mio màu trắng đã qua sử dụng BKS: 29T2-31XX;

- Thu giữ của Nguyễn Như T: 01 xe máy Honda Deam màu nâu đã qua sử dụng BKS: 29H5-39XX; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu đen (đã qua sử dụng) và 3.250.000 đồng tiền Việt Nam.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 124/KLĐG/HĐ của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND quận Ba Đình kết luận:

1- 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH màu nâu BKS: 30N2- 52XX, SK: 007663, SM: 5007732 đã qua sử dụng. Trị già là: 50.000.000 đồng.

2-01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu xanh BKS: 89F1-409XX, SK: 300663, SM: 300766 đã qua sử dụng. Trị già là: 6.000.000 đồng.

3- 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu nâu BKS: 31.9XX.U6, SK: 0180231, SM: 0180231 đã qua sử dụng. Trị già là: 5.000.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy Honda SH màu nâu BKS: 302 - 52XX cho anh Lê Ngọc T; trao trả chiếc xe máy Honda Wave Alpha màu xanh BKS: 89F1-409.XX cho anh Nguyễn Văn T; trao trả chiếc xe máy Honda Dream màu nâu đã qua sử dụng (không có BKS) cho chị Hoàng Thu S. Anh T, anh T, chị S đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì khác về dân sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 127/2019/HS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Như T và Mai Việt Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt:

+ Bị cáo Nguyễn Như T 32 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 29/11/2018;

+ Bị cáo Mai Việt Th 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án và được trừ đi thời giam tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/11/2018 đến ngày 08/5/2019.

- Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo, bị hại theo quy định của pháp luật.

Ngày 24/7/2019 bị cáo Mai Việt Th có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo.

Ngày 26/7/2018 bị cáo Nguyễn Như T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Như T, Mai Việt Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết. Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo với lý do bị cáo Nguyễn Như T là lao động chính trong gia đình, mẹ mới mất; bị cáo Mai Việt Th là lao động chính trong gia đình, con còn nhỏ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, xem xét kháng cáo của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Như T, áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Như T 32 tháng tù. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Mai Việt Th, áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt Mai Việt Th từ 25 đến 27 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Như T, Mai Việt Th tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, kết luận định giá tài sản, tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Trong 6

khoảng thời gian từ ngày 21/11/2018 đến ngày 28/11/2018, lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của những người bị hại, Mai Việt Th và Nguyễn Như T đã cùng nhau lén lút chiếm đoạt 03 chiếc xe máy gồm: 01 xe máy Honda SH màu nâu BKS 30N2-52XX của anh Lê Ngọc T trị giá 50.000.000 đồng; 01 xe máy Honda Wave BKS 89E1-409.XX của anh Nguyễn Như T trị giá 6.000.000 đồng và 01 xe máy Honda Dream BKS 31-9XXV6 của chị Hoàng Thu S trị giá 5.000.000 đồng nhằm mục đích bán lấy tiền ăn tiêu. Các bị cáo chiếm đoạt tổng trị giá tài sản là 61.000.000 đồng nên thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Như T, Mai Việt Th đã bị Toà án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Như T, Mai Việt Th thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án; vai trò của các bị cáo; Th độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo Nguyễn Như T có nhân thân xấu, có 03 tiền án tính đến nay đã được xóa án tích; bị cáo Mai Việt Th có 01 tiền sự đã hết thời hiệu, chưa có tiền án, phạm tội lần đầu; các bị cáo đều phạm tội nhiều lần; tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi và trả bị hại đã quyết định mức hình phạt 32 tháng tù đối với bị cáo Nguyễn Như T và 30 tháng tù đối với bị cáo Mai Việt Th cùng về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Do vậy kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Như T và kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Mai Việt Th là không có cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm bị cáo Mai Việt Th xuất trình tài liệu thể hiện bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân là lao động chính trong gia đình, bố, mẹ bệnh tật, vợ không có công ăn việc làm, con còn nhỏ được chính quyền địa phương xác nhận; hơn nữa bị cáo lần đầu tiên bị đưa ra xét xử trước pháp luật. Do vậy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Mai Việt Th, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo sớm hòa nhập với xã hội thành công dân tốt.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

[4] Bị cáo Nguyễn Như T kháng cáo không được cấp phúc thẩm chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Mai Việt Th kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự,

1.  Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Như T; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Mai Việt Th và sửa một phần bản án sơ thẩm:

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Như T 32 (Ba mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/11/2018 về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Mai Việt Th 26 (Hai mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/11/2018 đến ngày 08/5/2019) về tội “Trộm cắp tài sản”.

2.Về án phí:

- Bị cáo Nguyễn Như T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

- Bị cáo Mai Việt Th không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 670/2019/HS-PT ngày 06/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:670/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;