Bản án 669/2021/HS-PT về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 669/2021/HS-PT NGÀY 12/10/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 534/2021/HSPT ngày 07 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo Phạm Văn Th do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 114/2021/HSST ngày 28/5/2021 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo: Phạm Văn Th, sinh năm 1990 tại Hà Nội; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú thôn Đục Khê, xã S, huyện M, Thành phố Hà Nội; nơi ở trước khi phạm tội số nhà 9, ngách 35/29/5 LĐT, phường Đ1, quận N, Thành phố Hà Nội; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa 12/12; nghề nghiệp tự do; con ông Phạm Văn H và bà Lê Thị Th; vợ Nguyễn Thị L và có 01 con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự không; bị bắt giữ trong trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 29/01/2021; Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam số 1- Công an thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại không kháng cáo: Chị Mai Thị Hoà Th, sinh năm 1994; nơi cư trú P1007, tòa nhà 1A Vinaconex 7, phường PD, quận B, Thành phố Hà Nội; (vắng mặt do không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận B và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân quận B thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 ngày 27/01/2021, bị cáo Phạm Văn Th điều khiển xe máy Yamaha Sirius, màu trắng mang biển kiểm soát 29Y1-xxx đi giao hàng cho khách. Khi đến khu vực cổng chào khu đô thị Goldmark City thuộc phường PD, quận B, bị cáo thấy chị Mai Thị Hoà Th đang điều khiển xe máy, phía sau đeo ba lô và để một chiếc điện thoại ở túi bên trái của ba lô không đóng nắp túi nên nảy sinh ý chiếm đoạt chiếc điện thoại. Bị cáo điều khiển xe máy theo sau xe máy của chị Th, đến đoạn đường đối diện tòa nhà R3-R4 của khu đô thị thì tăng tốc, áp sát phía bên trái xe máy của chị Th rồi dùng tay phải giật chiếc điện thoại khỏi túi của chị Th. Chị Th liền truy hô và đuổi theo. Bị cáo điều khiển xe máy chạy một vòng quanh khu đô thị Goldmark rồi chạy về phía đường Hồ Tùng Mậu và đi vào đường LĐT, mang chiếc điện thoại Iphone 7Plus vừa lấy được về cất tại nhà trọ của bị cáo tại ngõ 35 LĐT, phường Đ1, quận N, Hà Nội. Chị Th trình báo sự việc trên đến cơ quan Công an. Cơ quan Công an tiến hành điều tra và bắt giữ bị cáo Th cùng vật chứng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 83 ngày 11/3/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B kết luận: Chiếc điện thoại di động Iphone 7 plus màu vàng, dung lượng 128Gb trị giá 3.000.000 đồng.

Ngày 23/3/2021, cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại Iphone 7 plus trên cho chị Th. Chị Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự, đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 114/2021/HSST ngày 28/5/2021 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hà Nội đã áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Phạm Văn Th 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 29/01/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/6/2021, các bị cáo Phạm Văn Th có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Căn cứ lời khai của bị cáo; lời khai của người bị hại, lời khai của những người liên quan; kết luận định giá và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại; thành khẩn khai báo, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; nhất thời phạm tội, tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho người bị hại, người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình tài liệu theo đó, bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng được thưởng huân chương, bị hại tiếp tục có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết mới giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ phân tích trên, xét thấy mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định xử phạt bị cáo là có phần nghiêm khắc. Do đó, có căn cứ để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Hình sự, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù.

Về án phí: Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

Kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo; lời khai của người bị hại, lời khai của những người liên quan; kết luận định giá và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 30 ngày 27/01/2021, tại đường nội bộ đối diện tòa nhà R3-R4 trong khu đô thị Goldmark City thuộc phường PD quận B, thành phố Hà Nội, Phạm Văn Th đi xe máy đã thực hiện hành vi cướp giật 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7 plus, 128Gb trị giá 3.000.000 đồng của chị Mai Thị Hòa Th. Với hành trên của Phạm Văn Th, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự là đúng.

Xét kháng cáo của các bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn Thủ đô. Bị cáo là người có đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, biết rõ việc sử dụng phương tiện nguy hiểm để cướp giật tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội. Do đó, khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là đúng. Tuy nhiên, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo nhất thời phạm tội, sau khi phạm tội, bị cáo đã tác động gia đình đến tự nguyện bồi thường cho bị hại 2.000.000 đồng; quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, bị cáo Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; tài sản chiếm đoạt giá trị không lớn đã được thu hồi trả cho người bị hại, người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình tài liệu, theo đó bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị hại tiếp tục có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy mức án 36 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Do đó, có căn cứ để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo tạo điều kiện để bị cáo yên tâm cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Về án phí: Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, xử:

1. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Xử phạt bị cáo Phạm Văn Th 24 ( hai mươi bốn) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/01/2021.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH 12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Án phí, Lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Phạm Văn Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 12/10/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

990
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 669/2021/HS-PT về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:669/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;