Bản án 664/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 664/2020/HS-ST NGÀY 03/12/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 680/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 698/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn D, sinh ngày 12 tháng 11 năm 1998, tại Hà Nội.

Tên gọi khác: Không.

Nơi đăng ký NKTT: Thôn 2, xã Thuần M, huyện Ba V, thành phố H. Chỗ ở hiện nay: Tổ 10, khu phố 2, phường L, thành phố B, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 02/12.

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm 1961 (còn sống) và bà Trần Thị H, sinh năm 1962 (còn sống).

Bị cáo chưa có vợ con.

Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo ra đầu thú ngày 31 tháng 8 năm 2020, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa.

* Bị hại :

- Ông Thái Văn P, sinh năm 1968;

Địa chỉ: Số C417, tổ 15, khu phố 3, phường L, thành phố B, tỉnh Đ. (Bị cáo có mặt, bị hại vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn D là nhân viên cửa hàng GAS Thủy Trà My, địa chỉ tại C381, Khu phố 3, phường L, thành phố B, tỉnh Đ, do ông Thái Văn P, sinh năm 1968 làm chủ.

Khoảng 15 giờ 00 ngày 22 tháng 8 năm 2020, ông P giao nhiệm vụ cho D cùng với 02 nhân viên khác là Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1989, ở Hố Nai 3, huyện Trảng Bom và Ngô Hồng H, sinh năm 1990, ở khu phố 2, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa chở 31 (ba mươi mốt) bình Gas đến giao hàng cho ông Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1953, tại địa chỉ Tổ 2A, Khu phố 12, phường An Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và lấy tiền về cho ông P. Sau khi nhận hàng, ông T đã thanh toán số tiền hàng là 5.428.000 đồng (Năm triệu, bốn trăm, hai mươi tám nghìn đồng), rồi đưa số tiền trên cho Doanh cầm về cho ông P. Sau khi về cửa hàng do ông P tin tưởng D nên ông P đã mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, biển số 38K1-4158 của H giao cho D đi tìm nơi ở của một người đàn ông tên P (không rõ, họ địa chỉ) ở khu vực Chợ Điều thuộc phường Long Bình, thành phố Biên Hòa là khách nợ tiền. Sau khi theo dõi và biết được nơi ở của người đàn ông tên P, trên đường quay về D đã nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền hàng 5.428.000 đồng (Năm triệu bốn trăm hai mươi tám nghìn đồng) mà ông T đã đưa trước đó và xe mô tô biển số 38K1-4158, D đã tắt nguồn điện thoại với mục đích để ông P không liên lạc được và mang số tài sản trên bỏ trốn. Đợi không thấy D về, ông P đã gọi điện thoại cho D nhưng không liên lạc được, ông P đến phòng trọ của D tìm nhưng không thấy. Sau khi chiếm đoạt được tài sản, D điều khiển xe mô tô đi đến Trạm thu phí đường bộ huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, dừng lại, kiểm tra trong cốp xe thấy có số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1, 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C, 01 thẻ ATM tất cả đều mang tên Nguyễn Ngọc H; D đã vứt toàn bộ số giấy tờ trên, vì lo sợ trên đường đi bị Công an kiểm tra phát hiện và khi bán xe người mua sẽ không tìm được đến chủ cũ; D tiếp tục đi ra thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định và bán chiếc xe cho một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) được 1.500.000 đồng (một triệu, năm trăm nghìn đồng). Sau đó, đón xe khách ra Hà Nội cho đến ngày 27 tháng 8 năm 2020, đón xe quay trở lại Biên Hòa để lấy đồ đạc thì bị ông P bắt gặp giữ lại. Biết hành vi phạm tội không thể trốn tránh nên D đã lên Công an phường Long Bình đầu thú và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

*Vật chứng gồm:

- D đã nhặt và trả lại cho anh H 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1, 01 thẻ ATM, riêng giấy phép lái xe ô tô hạng C đã mất.

- Chiếc xe mô tô hiệu Wave, biển số 38K1-4158, D đã bán cho một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, không thu hồi được.

- Số tiền hàng 5.428.000 đồng và 200.000 đồng D đã tiêu xài hết, nên không thu hồi được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 397 ngày 07 tháng 9 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa, kết luận đối với 01 xe mô tô biển số 38K1-4158 có trị giá là 11.563.500 đồng (Mười một triệu năm trăm sáu mươi ba nghìn năm trăm đồng).

Về dân sự: Ông Thái Văn P không yêu cầu Nguyễn Văn Doanh bồi thường;

anh Nguyễn Ngọc H là chủ chiếc xe yêu cầu ông Thái Văn P bồi thường số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), ông P chưa bồi thường.

*Tại Cáo trạng số: 681/CT/VKS-BH ngày 16 tháng 11 năm 2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, đã truy tố Nguyễn Văn D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” từ 12 (mười hai) tháng đến 14 (mười bốn) tháng tù.

- Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 22 tháng 8 năm 2020, tại Khu phố 3, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Nguyễn Văn D đã có hành vi nhận tài sản của ông Thái Văn P số tiền 5.428.000 đồng, một xe mô tô biển số 38K1-4158 có trị giá là 11.563.500 đồng và 200.000 đồng, rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó. Tổng số tiền chiếm đoạt là 17.191.500 đồng, thì bị phát hiện xử lý theo quy định;

Do vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn D đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự; như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố, là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật công nhận và bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do vậy, cần có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[3] Xét về nhân thân, cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo tự ra đầu thú, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật bị hạn chế. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[4] Về vật chứng, không có, không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về dân sự, bị hại không có yêu cầu bồi thường gì; do vậy, không đặt ra xem xét giải quyết;

Việc anh Nguyễn Ngọc H yêu cầu ông Thái Văn P bồi thường số tiền 5.000.000 đồng, xét thấy đây là vụ án dân sự khác, không liên quan đến vụ án này. Các bên đương sự có thể khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác, khi có yêu cầu.

[6] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố phù hợp với quy định pháp luật, nên được chấp nhận.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố , bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

1. Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn D 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31 tháng 8 năm 2020.

2. Về vật chứng, không có, không đặt ra xem xét giải quyết.

3. Về dân sự, bị hại không yêu cầu bồi thường; do vậy, không đặt ra xem xét, giải quyết.

4. Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 664/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:664/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;