Bản án 66/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 66/2021/HS-ST NGÀY 01/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, Tòa án nhân dân huyện Tân Phú mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 63/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Mai Đình C, sinh năm 2001, tại tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Thôn X, xã Q N, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai L, sinh năm 1969 và bà Vũ Thị H, sinh năm 1969; vợ, con, tiền án, tiền sự, nhân thân: Không. Bị tạm giữ từ ngày 04/01/2021 đến ngày 13/01/2021 và bị tạm giam từ ngày 13/01/2021 đến nay. Bị cáo có mặt.

2. Dương Đức T, sinh năm 2001, tại tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Thôn X, xã Q N, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Đức H, sinh năm 1971 và bà Đỗ Thị T, sinh năm 1975; vợ, con, tiền án, tiền sự, nhân thân: Không. Bị tạm giữ từ ngày 04/01/2021 đến ngày 13/01/2021 và bị tạm giam từ ngày 13/01/2021 đến nay. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Mai Đình C và Dương Đức T là bạn bè và cùng nghiện ma túy. Khoảng 00 giờ ngày 04/01/2021, C và T bàn với nhau, mỗi người góp 150.000 đồng để mua ma túy về cùng sử dụng nhưng C bỏ ra trước 300.000 đồng mua ma túy, về T sẽ trả lại cho C 150.000 đồng. Sau khi bàn bạc xong, C lấy điện thoại di dộng nhãn hiệu Redmi màu đen gọi điện đến số điện thoại số 0908360078 của một người tên Sơn ở Ấp X, xã Đ L, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai để mua ma túy. C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 50T2-2381 chở T đến Ấp X, xã Đ L để lấy ma túy. Đến khoảng 01 giờ ngày 04/01/2021, C đến gặp một người thanh niên cao khoảng 1m65, chân bị tật, mặc áo thun nhưng do trời tối nên không rõ màu đưa 300.000 đồng và được người thanh niên chỉ chỗ giấu ma túy ở cột bê tông gần đường đi để C tự lấy. Sau khi lấy được ma túy, C và T chuẩn bị lên xe để về thì bị Công an xã Đ L, huyện Tân Phú tuần tra, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật gồm:

- 01 gói ny lông màu trắng hàn kín 02 đầu, bên trong chứa tinh thể màu trắng ở trong tay của Mai Đình C theo C và Dương ĐứcT khai là ma túy được niêm phong trong phong bì theo quy định của pháp luật;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen của Mai Đình C;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung S6 màu đồng và 01 chứng minh nhân dân của Dương Đức T;

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu xám bạc, biển số 50T2-2381 và đăng ký xe.

Các đối tượng và tang vật thu giữ được Công an xã Đ L bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú tiến hành trưng cầu giám định mẫu vật được thu giữ:

Tại Bản kết luận giám định số: 40/KLGĐ-PC09 ngày 08/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1099 gam, loại: Methamphetamine; mẫu vật còn lại sau giám định 0,07664 gam.

Cáo trạng số: 59/CT-VKSTP-ĐN ngày 19/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, truy tố các bị cáo Mai Đình C và Dương Đức T, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiêm sat viên trình bày ý kiến luân tôi như sau:

Hành vi của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý mặt hàng cấm của Nhà nước; Cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật nên giữ nguyên quyết định truy tố; cần phải có mức án phạt tù cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự tuyên phạt các bị cáo:

Mai Đình C mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; Dương Đức T mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Về xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng có khối lượng: 0,07664 gam là chất cấm lưu hành;

Đề nghị tịch thu phát mãi sung công 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen của Mai Đình C là công cụ thực hiện việc phạm tội;

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 50T2-2381 có giấy đăng ký xe mang tên chủ sở hữu là Nguyễn Văn Đ, địa chỉ: 233/30 N T, phường N C T, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. C khai là mua ở thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng nhưng không nhớ chỗ mua nên cần tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

Đối với đối tượng tên Nguyễn Thanh S và Trần Văn V (người thanh niên cao khoảng 1m65, chân bị tật) không thừa nhận bán và giao ma túy cho các bị cáo như lời khai của bị cáo C. Ngoài lời khai của bị cáo C không có chứng cứ nào khác nên không có cơ sở để xử lý. Tiếp tục điều tra khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Nội dung lời khai của những người tham gia tố tụng trong hồ sơ vụ án:

- Lời trình bày ý kiến, tranh luận của các bị cáo: Các bị cáo thừa nhận nội dung của Bản cáo trạng là đúng sự thật, các bị cáo không có ý kiến tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Lời trình bày của Nguyễn Thanh S và Trần Văn V: Sơn và Vinh là bạn bè và cùng nghiện ma túy nhưng không có quan hệ gì với các bị cáo. Ngày 04/01/2021, Sơn và Vinh không thỏa thuận mua bán và giao ma túy cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa, các bị cáo không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1.] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2.] Về trách nhiệm hình sự: [2.1] Xét về hành vi phạm tội:

Lúc 01 giờ 15 phút, ngày 04/01/2021, tại Ấp X, xã Đ L, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, sau khi mua được ma túy Mai Đình C và Dương Đức T có hành vi cất giấu 0,1099 gam, loại Methamphetamin để sử dụng thì bị công an xã Đ L, huyện Tân Phú bắt giữ.

Hành vi mà các bị cáo đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[2.2] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Các bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình để nhận biết được hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm chế độ quản lý mặt hàng cấm của Nhà nước mà còn gây tác hại lớn đối với sức khỏe và nhân cách của con người, làm thiệt hại kinh tế của gia đình cũng như xã hội và là một trong những nguyên nhân nảy sinh của các loại tội phạm khác; gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy, buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm mà các bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong T xã hội.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng bàn bạc để thực hiện hành vi phạm tội nên tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là tương đương nhau.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[2.4] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử cần xem xét mà giảm nhẹ một phần cho mức hình phạt cho các bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Tòa án mở phiên tòa công khai xét xử vụ án để xử lý hành vi phạm tội của bị cáo và để tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của công dân, góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong xã hội.

[3] Về xử lý vật chứng của vụ án:

Số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 0,07664 gam là chất cấm lưu hành nên cần tịch tiêu hủy là đúng pháp luật.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen của Mai Đình C là công cụ thực hiện việc phạm tội nên tịch thu phát mãi sung công quỹ nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Sam sung S6 màu đồng của Dương Đức T không dùng vào mục đích phạm tội đã trao trả cho chủ sở hữu là đúng pháp luật.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 50T2-2381 thu giữ của Mai Đình C cần tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

[4] Đối với các vấn đề khác: Các đối tượng tên Nguyễn Thanh S và Trần Văn V (người thanh niên cao khoảng 1m65, chân bị tật) không thừa nhận bán và giao ma túy cho các bị cáo như lời khai của bị cáo C. Ngoài lời khai của bị cáo C không có chứng cứ nào khác nên không có cơ sở để xử lý. Vì vậy, không xác định Nguyễn Thanh S và Trần Văn V là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

[5] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Các bị cáo Mai Đình C và Dương Đức T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

Bị cáo Mai Đình C 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/01/2021.

Bị cáo Dương Đức T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/01/2021.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015;

Tịch thu tiêu hủy: Số lượng ma túy còn lại sau giám định là 0,07664 gam là chất cấm lưu hành được niêm phong số 40/KLGĐ-PC09.

Tịch thu phát mãi sung vào công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen của Mai Đình C là công cụ dùng vào việc phạm tội.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/4/2021 giữa Công an huyện Tân Phú và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai).

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 292; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 66/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;