Bản án 66/2020/HS-ST ngày 31/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 66/2020/HS-ST NGÀY 31/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 03 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 83/2020/TLST - HS ngày 15 tháng 03 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2020/QĐXXST - HS ngày 20 tháng 03 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Ngọc Q, sinh năm 1973; giới tính: Nam; hộ khẩu thường trú: Phòng 424 - F11 tập thể Cao su Sao vàng, phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Phòng 501 - 14N02 khu tái định cư xóm Chùa, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Vũ Quang Ngọc, sinh năm 1942 và bà Phùng Thị Thìn, sinh năm 1952; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; có vợ Trần Phương M, sinh năm 1979 và có 03 con sinh vào các năm 2011, 2016 và 2018. Nhân thân: Bị cáo có 02 lần bị xét xử và 02 lần bị xử phạt hành chính, cụ thể:

- Bản án hình sự phúc thẩm số 61/1999/HSPT ngày 10/12/1999, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã xóa án tích);

- Bản án hình sự sơ thẩm số 209/2009/HSST ngày 12/6/2009, Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã xóa án tích);

- Tháng 01/1999, Ủy ban nhân dân xã Lộc Hạ, thành phố Nam Định xử phạt hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”;

- Tháng 05/1999, Ủy ban nhân dân xã Lộc Hạ, thành phố Nam Định xử phạt hành chính về hành vi “Cư trú bất hợp pháp”;

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 02/12/2019, đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an Thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Phương M, sinh năm 1979; nơi cư trú; Phòng 501-14N02 khu tái định cư xóm Chùa, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Viện kiếm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội truy tố: Hồi 16 giờ 00 phút ngày 02/12/2019, tại trước tòa nhà OCT1-X1 Bắc Linh Đàm, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, tổ công tác Y22 – 141 Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Công an phường Đại Kim phát hiện Vũ Ngọc Q điều khiển xe máy Lead mang BKS 29G1-862.34 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành dừng xe kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra phát hiện bắt quả tang Quang đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong bàn tay trái của Quang 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 2x2 cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng. Tại chỗ Quang khai gói nilon trên là ma túy đá Quang mua về để sử dụng. Tổ công tác đã đã lập biên bản thu giữ niêm phong tang vật, ngoài ra còn thu giữ của Quang 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu xanh nâu mang BKS 29G1-862.34, sau đó đưa Quang về trụ sở cơ quan công an để làm rõ.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai, Vũ Ngọc Q khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 02/12/2019, Quang điều khiển xe máy Honda Lead BKS: 29G1-862.34 một mình đến khu vực cổng trung tâm điều trị Methadone Linh Đàm, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây Quang gặp và mua được của một người phụ nữ không quen biết 01 gói ma túy đá với giá 250.000 đồng. Sau khi mua xong, Quang cầm gói ma túy ở tay trái và đi xe máy về nhà để sử dụng. Khi đi đến trước tòa nhà OCT1-X1 Bắc Linh Đàm, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội thì bị tổ công tác Y22-141 CATP Hà Nội phối hợp với Công an phường Đại Kim phát hiện kiểm tra bắt quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 7730/KLGĐ-PC09 ngày 10/12/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội giám định kết luận: tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,427 gam.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai đã tiến hành dẫn giải Vũ Ngọc Q, xác định được vị trí Quang mua ma túy tại trước cổng trung tâm điều trị Methadone Linh Đàm, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội nhưng không xác định được người phụ nữ đã bán ma túy cho Quang nên không có căn cứ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 92 CT-VKS-HM, ngày 10/03/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, truy tố bị cáo Vũ Ngọc Q về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Tại phiên tòa: Bị cáo Vũ Ngọc Q thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.

Chị Trần Phương M trình bày: Chiếc xe máy Honda Lead BKS 29G1- 862.34, mặc dù đứng tên bị cáo nhưng tiền mua xe là của chị. Nguồn tiền do chị dành dụm một phần, do bố mẹ đẻ và bố mẹ chồng cho một phần. Lý do chị để bị cáo đứng tên là vì sắp tới chị phải đi thi hành án tù 07 năm về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Việc sử dụng xe hàng ngày do hai vợ chồng cùng sử dụng để đưa đón các con. Chi yêu cầu Tòa án trả lại xe cho mình.

Kiểm sát viên nắm quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Vũ Ngọc Q như Bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá tích chất, mức độ hành vi phạm tội; nhân thân của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Vũ Ngọc Q từ 14 đến 18 tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”; không áp dụng hình phạt bổ sung; Tịch thu tiêu hủy: 0,427 gam Methamphetamine; trả lại chị Trần Phương M 01 xe máy Honda Lead BKS 29G1-862.34. Vì tiền mua xe máy của chị M, khi bị cáo Quang dùng xe máy này đi mua ma túy, chị không biết.

Phần tranh luận tại phiên tòa: Bị cáo Vũ Ngọc Q thừa nhận Kiểm sát viên luận tội và kết luận bị cáo phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, nên không tranh luận; bị cáo chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên về hướng giải quyết toàn bộ vụ án.

Chị Trần Phương M: Tôi đồng ý với quan điểm của Kiểm sát viên về hướng giải quyết toàn bộ vụ án. Tôi không còn gì để tranh luận.

[3] Lời nói sau cùng của bị cáo: “Bị cáo có con nhỏ dưới 36 tháng và sắp tới vợ bị cáo lại phải đi trả án phạt tù 07 năm. Vì vậy, bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về gia đình chắm sóc con nhỏ”.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, các quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai, Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật, không có khiếu nại, tố cáo. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với các quy định của pháp luật.

[2] Xét hành vi nguy hiểm của bị cáo bị truy tố:

Tại các Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ, niêm phong và mở niêm phong tang vật; Quyết định trưng cầu giám định xác định khối lượng, loại ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều - Công an quận Hoàng Mai; Kết luận giám định số 7730/KLGĐ-PC09 ngày 10/12/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội, cùng các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện:

Hồi 16 giờ 00 phút ngày 02/12/2019, tại trước tòa nhà OCT1 - X1 Bắc Linh Đàm, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, bị cáo Vũ Ngọc Q đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,427 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân.

Bị cáo Vũ Ngọc Q sinh năm 1973 là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn. Xác định hành vi này của bị cáo là tội phạm nghiêm trọng. Hành vi đó đã xâm phạm chính sách của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người; đồng thời có thể là nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật khác; gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh trật tự xã hội. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo nghiêm bằng pháp luật hình sự và áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra, tại phiên tòa đã làm rõ bị cáo đang có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi trong khi vợ bị cáo đang được tạm hoãn thi hành án phạt tù 7 năm về tội mua bán trái phép chất ma túy (ly do hoãn vị đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi). Khi con của bị cáo đủ 36 tháng tuổi thì vợ của bị cáo lại phải đi thi hành án nói trên. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần mờ lượng khoan hồng cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giải nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cho bị cáo sớm có cơ hội trở về gia đình nuôi dạy con nhỏ khi vợ phải đi chấp hành án phạt tù 07 năm.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệp hình sự: Bị cáo không có.

- Về nhân thân: Qua Danh chỉ bản, trích lục tiền án, tiền sự, lý lịch cá nhân, lịch bị can và qua thẩm vấn tại phiên tòa Tòa xác định bị cáo đã từng hai lần bị xét xử, lần lượt vào các năm 1999 và 2009. Bị cáo đã chấp hành xong các bản án này, đến nay được xác định là đã xóa án tích. Ngoài ra, năm 1999 bị cáo còn hai lần bị lý hành chính. Lần xét xử này đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xác định bị cáo không tái phạm, nhưng cần xác định bị cáo là người có nhân thân xấu để quyết định hình phạt cho tương xứng.

Đối với tội phạm về ma túy, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hội đồng xét xử, xét bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng lớn nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về áp dụng Biên pháp tư pháp: Khi bắt quả tang bị cáo có hành vi tàng trữ trái pháp chất ma túy, Công an thu giữ: 01 gói nilon chứa ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,427 gam và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu xanh nâu, Biển kiểm soát: 29G1-862.34 có số khung:

RLHJF7938KZ007611, số máy: JF89E0011973. Khi giải quyết vụ án cần căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử lý. Do đó, Hội đồng xét xử nhận định, cần:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,427 gam gam Methamphetamine là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành;

- Về xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu xanh nâu, Biển kiểm soát 29G1- 862.34 có số khung: RLHJF7938KZ007611, số máy: JF89E0011973 đăng ký chính chủ mang tên Vũ Ngọc Q. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ xe máy này được mua bằng tiền của chị Trần Phương M (vợ bị cáo). Lý do chị M để bị cáo đứng tên là vì khi con chị đủ 36 tháng tuổi thì chị phải đi thi hành án tù 07 năm về tội mua bán trái phép chất ma túy. Hàng ngày chị và bị cáo cùng sử dụng để đưa đón các con đi học. Bị cáo dùng xe máy này vào việc đi mua ma túy chị không biết. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu trả lại xe máy cho chị M là có cơ sở, cần trả lại cho chị M.

[5] Các vấn đề khác: Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Vũ Ngọc Q, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ xử lý .

[6] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào các Điều 106, 136, 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt bị cáo Vũ Ngọc Q 14 (mười bốn) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt quả tang: mồng 02 tháng 12 năm 2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Biện pháp tư pháp:

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 0,427 gam gam Methamphetamine là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành;

2.2. Trả lại chị Trần Phương M 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu xanh nâu biển kiểm soát 29G1 - 862.34 có số khung: RLHJF7938KZ007611, số máy: JF89E0011973 đăng ký mang tên Vũ Ngọc Q.

Toàn bộ vật chứng nêu trên, đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án Dân sự quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, theo Biên bản và Phiếu nhập kho vật chứng ngày 13 tháng 3 năm 2020.

3. Về án phí: Bị cáo Vũ Ngọc Q phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 66/2020/HS-ST ngày 31/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;