TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 66/2020/HS-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Quang H, sinh năm 1987 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quang T và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Lê Thị M (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2009; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 30-9-2019 bị Công an phường Khương Mai, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; nhân thân: Ngày 27-4-2010 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam ra quyết định về việc đưa đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thời gian 24 tháng; ngày 21-5-2020 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; bị bắt tạm giam từ ngày 06-7-2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt tại phiên toà.
- Bị hại: Công ty Cổ phần G; địa chỉ: Số X, khu đô thị V, phường P, quận H, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Ngọc K-Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Q, sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Với ý định đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp nên khoảng 18 giờ ngày 24-6- 2020, Nguyễn Quang H đi xe đạp mi ni màu đỏ từ thôn S, xã T về nhà. Khi H đi qua lối vào khu công nghiệp Đồng Văn IV thuộc thôn S, xã T, huyện K thì thấy Công ty TNHH đang xây dựng do Công ty Cổ phần Green thi công có nhiều thanh sắt hộp vuông nhưng không thấy có người trông coi. H đạp xe đến khu vực công trường thì gặp ông Bùi Xuân Tr là bảo vệ của Công ty G, ông Tr hỏi H “Vào đây làm gì”, H trả lời “Cháu đi dạo mát”, sau đó H tiếp tục đạp xe đi loanh quanh trong khu công nghiệp. Khoảng 10 phút sau, H đạp xe quay lại công trường nơi để nhiều thanh sắt, dựng xe đạp tại vỉa hè rồi đi bộ vào khu vực để thanh sắt (cách vị trí Hưng dừng xe đạp khoảng 20m). H đứng quan sát không thấy người trông coi, bảo vệ nên dùng hai tay ôm 05 thanh sắt hộp vuông 5cm, dày 0,2cm, có độ dài khác nhau bê đến khu vực dựng xe đạp và đặt 05 thanh sắt ở cạnh xe đạp. Sau đó, H tiếp tục đi bộ quay lại công trường, dùng hai tay ôm 06 thanh sắt có đặc điểm như trên bê ra vị trí dựng xe đạp. Đến lần thứ ba khi H đang ôm 06 thanh sắt nữa bê ra nơi cách xe đạp khoảng 2m thì gặp anh Đỗ Trung Q ở xã Đ, huyện Ki, anh Q hỏi H “Mày lấy sắt ở đâu” thì H trả lời “Em xin ông bảo vệ”, anh Q nói “Gọi ông bảo vệ ra đây”, H biết không thể chối cãi được nên nói “Em lấy trong công trường, em trót dại, anh tha cho em”. Ngay sau đó lực lượng Công an xã Nhật Tựu đã đến hiện trường, thu giữ vật chứng, lập biên bản vụ việc, lấy lời khai ban đầu. Ngày 25-6- 2020, Công an xã Nhật Tựu đã chuyển toàn bộ hồ sơ cùng vật chứng thu giữ đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Kim Bảng để điều tra theo thẩm quyền.
Vật chứng thu giữ: 17 thanh sắt hộp vuông 5cm, dày 0,2cm gồm: 04 thanh dài 70cm, 08 thanh dài 80cm, 01 thanh dài 85cm, 02 thanh dài 95cm, 01 thanh dài 105cm, 01 thanh dài 115cm; 01 xe đạp mi ni màu đỏ.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 21/KLĐG ngày 26-6-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Kim Bảng kết luận: Theo giá thị trường hiện tại ngày 24-6-2020, số lượng 17 thanh sắt có đặc điểm như trên đều đã qua sử dụng, tổng trọng lượng là 38,5kg, có giá trị: 211.750đ (hai trăm mười một nghìn bảy trăm năm mươi đồng).
Tại bản Cáo trạng số 60/CT - VKSKB ngày 24-8-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo Nguyễn Quang H về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo H từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quang H khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố và nhất trí với lời luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bản thân.
Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Nguyễn Q trình bày: Anh là anh trai của bị cáo Nguyễn Quang H và là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe đạp mi ni màu đỏ. Ngày 24-6-2020 H mượn chiếc xe này của anh nhưng anh không biết H sử dụng xe vào việc phạm tội. Tại giai đoạn điều tra anh đã được cơ quan điều tra trả lại chiếc xe đạp nên nay anh không có yêu cầu gì nữa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập.
[3] Hội đồng xét xử thấy đã có đủ căn cứ để xác định: Vào khoảng 18 giờ ngày 24-6-2020, tại thôn S, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam, lợi dụng sơ hở trong việc trông coi, quản lý tài sản của Công ty G trong khi thi công công trình, bị cáo Nguyễn Quang H đã lén lút trộm cắp 17 thanh sắt có tổng trọng lượng 38,5kg, trị giá 211.750 đồng thì bị phát hiện và bị Công an xã Nhật Tựu lập biên bản vụ việc. Mặc dù H trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng, nhưng H đã bị xử phạt vi phạm vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm nên hành vi của Nguyễn Quang H đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, gây tâm lí hoang mang cho các doanh nghiệp cũng như người dân trong việc quản lí tài sản, làm mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy cần phải xử lí nghiêm khắc, cách li bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Khi quyết định hình phạt, xét bị cáo là người có nhân thân xấu, đang có một tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản, đã một lần bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc và đang bị cơ quan tiến hành tố tụng quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội khởi tố để xử lí về tội “Trộm cắp tài sản”. Tuy nhiên, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; quá trình điều tra và tại phiên toà đều khai báo thành khẩn, vì vậy bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, không có nghề nghiệp và thu nhập, không có tài sản riêng, do đó miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan CSĐT Công an huyện Kim Bảng đã làm rõ 17 thanh sắt hộp vuông là tài sản hợp pháp của Công ty G nên đã trả lại cho công ty, sau khi nhận lại tài sản đại diện công ty không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 chiếc xe đạp mi ni màu đỏ, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Q (anh trai bị cáo H), anh Q không biết H mượn xe đạp của anh từ khi nào và sử dụng vào mục đích gì, do vậy cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe đạp cho anh Q là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án và Danh mục án phí, lệ phí Toà án:
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quang H phạm tội "Trộm cắp tài sản". Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang H 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 06-7-2020.
2. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Quang H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Báo cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bản án 66/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 66/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về