Bản án 66/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 66/2019/HS-ST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18/4/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 58/2019/TLST-HS ngày 20/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2019/QĐXXST-HS ngày 05/4/2019 đối với bị cáo:

Quàng Văn Q, sinh năm 1995.

HKTT: Bản N, xã Ch, huyện Th, tỉnh Sơn La.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Quàng Văn Ng, sinh 1964 và bà Lường Thị L, sinh 1967; Vợ: Lường Thị Y, sinh 1994

Con: có 02 con, lớn sinh 2013, nhỏ sinh 2015. Tiền án, tiền sự: Không

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/12/2018 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Q là đối tượng nghiện ma túy và không có nghề nghiệp ổn định. Để có tiền chi tiêu cá nhân và mua ma túy sử dụng, Q đã nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại cho người khác để kiếm lời. Khoảng 12 giờ 30’ ngày 07/12/2018, Q đang ở khu vực dốc đường tàu thuộc khu phố Minh Khai, phường Đông Ngàn thì gặp Trọng và anh Chu Anh Tuấn. Do cần ma túy để sử dụng cho bản thân nên Trọng có hỏi Q bán cho 200.000đ ma túy. Vì muốn kiếm lời nên Q nảy sinh ý định mua ma túy bán lại cho Trọng. Q đồng ý bảo Trọng đứng đợi. Sau đó, Q đi bộ vào khu dân cư tìm nơi bán ma túy. Trên đường đi, Q thấy một nam thanh niên không quen biết có biểu hiện nghiện ma túy đang đưa tiền qua khe cửa vào bên trong ngôi nhà. Trong nhà có người cầm tiền và đưa ra ngoài cho người thanh niên 01 gói nhỏ nên Q biết ngôi nhà đó có bán ma túy. Khi người thanh niên đó đi khỏi thì Q liền đi đến trước khe cửa của ngôi nhà rồi đưa 100.000đ vào trong nhà. Trong nhà có người không rõ là ai cầm tiền và đưa ra ngoài cho Q 01 gói nhỏ bọc ngoài lớp giấy màu trắng. Q biết đó là ma túy nên cầm gói ma túy và đi đến chỗ Trọng đợi để bán ma túy cho Trọng. Khi gặp Q, Trọng đưa cho Q 200.000đ gồm 02 tờ tiền polime mệnh giá 100.000đ. Q cầm tiền và đưa lại cho Trọng 01 gói nhỏ ma túy vừa mua được trước đó. Trọng vừa cầm gói ma túy Q đưa thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm:

Thu của Trọng 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng được niêm phong vào trong một phong bì thư; 01 tờ giấy có ghi các dòng chữ “XSMB ngày 07/12/2018 NR: 13652817; AK: 13274095”

Ngoài ra còn thu giữ của Q 02 tờ tiền polime mệnh giá 100.000đ có số sê ri NR: 13652817; AK: 13274095.

Kết luận giám định số 46/KLGĐMT-PC09 ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “chất bột màu trắng được niêm phong bên trong một gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy màu trắng có khối lượng 0,0758 gam; là ma túy; loại ma túy: Heroine

Với hành vi trên tại bản Cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 19/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Quàng Văn Q ra trước Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh để xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo có thực hiện những hành vi như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo không có ý kiến gì về kết luận giám định số ma túy đã thu giữ. Bị cáo xác định với hành vi như vậy nay bị truy tố, xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, không có oan sai gì; xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về đoàn tụ gia đình và xã hội.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố giữ nguyên bản Cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 19/3/2019. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Quàng Văn Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Áp dụng  khoản 1, khoản 5 điều 251, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt:   Quàng Văn Q từ 24 đến 30 tháng tù.

Phạt bổ sung bị cáo từ 5 đến 7 triệu đồng xung quỹ Nhà nước.

Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định và 01 tờ giấy có ghi các dòng chữ “XSMB ngày 07/12/2018 NR: 13652817; AK: 13274095”

Tịch thu sung công 02 tờ tiền polime mệnh giá 100.000đ có số sê ri NR: 13652817; AK: 13274095.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Tại lời nói sau cùng trước khi HĐXX vào nghị án, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật thu hồi được và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: hồi 12 giờ 30’ ngày 07/12/2018, tại khu phố Minh Khai, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn bị cáo Q đã có hành vi bán trái phép 0,0758 gam Heroine cho 01 đối tượng nam thanh niên không quen biết tự xưng là Lê Văn Trọng. Do vậy, bản cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 19/3/2019 của VKSND thị xã Từ Sơn đã truy tố bị cáo Q với tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, ma tuý cũng là nguyên nhân phát sinh các tội phạm hình sự khác. Do vậy cần phải có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung với xã hội.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng nghiện ma túy.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật thu hồi được và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: hồi 12 giờ 30’ ngày 07/12/2018, tại khu phố Minh Khai, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn bị cáo Q đã có hành vi bán trái phép 0,0758 gam Heroine cho 01 đối tượng nam thanh niên không quen biết tự xưng là Lê Văn Trọng. Do vậy, bản cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 19/3/2019 của VKSND thị xã Từ Sơn đã truy tố bị cáo Q với tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, ma tuý cũng là nguyên nhân phát sinh các tội phạm hình sự khác. Do vậy cần phải có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung với xã hội.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng nghiện ma túy.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn là có căn cứ và phù hợp, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới giúp bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua ma túy nhằm mục đích bán kiếm lời nên ngoài hình phạt chính thì cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Về xử lý vật chứng: Số mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh là vật cấm lưu hành và 01tờ giấy có ghi các dòng chữ “XSMB ngày 07/12/2018 NR: 13652817; AK: 13274095” không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 02 tờ tiền mệnh giá 100.000đ có số sê ri NR: 13652817; AK: 13274095 là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Liên quan trong vụ án này có đôi tượng tự khai là Lê Văn Trọng là người đã mua ma túy của Q. Quá trình làm việc tại cơ quan điều tra, lợi dụng sơ hở của lực lượng trông giữ đã bỏ trốn. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại địa phương nhưng không có đối tượng nào có lý lịch như Trọng khai với cơ quan điều tra.

Đối với anh Chu Anh Tuấn là người đi cùng Trọng nhưng anh Tuấn không biết trước việc mua bán ma túy của Trọng và Q. Anh Tuấn và Trọng mới quen biết nhau, anh Tuấn không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ của Trọng nên Cơ quan điều tra không xử lý với anh Tuấn là đúng quy định pháp luật.

Đối với người đã bán ma túy cho Q, quá trình điều tra chưa xác định được tên, địa chỉ của người này. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào điều tra làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo   Quàng Văn Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng  khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự;  Điều 106; điều 329; khoản 2 điều 136; điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH Khóa 14 về thu nộp án phí, lệ phí.

Xử phạt: Quàng Văn Q  26 (Hai mươi sáu) tháng  tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 07/12/2018.

Phạt bổ sung bị cáo Q 5.000.000đ (Năm triệu đồng) xung quỹ Nhà nước.

Tạm giam bị cáo Quàng Văn Q 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 46/KLGĐMT-PC09 ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh và 01 tờ giấy có ghi các dòng chữ “XSMB ngày 07/12/2018 NR: 13652817; AK: 13274095”.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 200.000đ gồm 02 tờ tiền polime mệnh giá 100.000đ số sê ri NR: 13652817; AK: 13274095.

Về án phí: Bị cáo Q phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về Q kháng cáo: Bị cáo có Q kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 66/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;