Bản án 66/2019/HSST ngày 05/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

 BẢN ÁN 66/2019/HSST NGÀY 05/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tòng Văn X; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 23/06/1993 tại tỉnh B; Nơi cư trú: Đội 13, xã T, huyện B, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 12/12 phổ thông; Con ông: Tòng T - sinh năm 1974 (Còn sống); Con bà: Vì T - sinh năm 1976 (Còn sống); Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sư: Không. Bị tạm giữ từ ngày 18/6/2019, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Phạm Văn B - Sinh năm: 1982

Địa chỉ: Tổ dân phố 19, phường T, thành phố Đ, tỉnh B (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 18/6/2019, Công an phường N, thành phố Đ làm nhiệm vụ tại khu vực bản Khá, phường N, thành phố Đ phát hiện Tòng Văn X điều khiển mô tô BKS 27B1 - 109.22 đi vào nghĩa trang bản Khá, phường N có biểu hiện nghi vấn hoạt động tội phạm về ma túy, tổ công tác áp sát, khống chế, X đã ném một gói nhỏ nilon màu đen bên trong có 02 viên nén màu hồng và 01 cục chất bột thể rắn màu trắng đục trong lòng bàn tay trái về phía trước, cách chân X đứng khoản 1,5m. X khai đó là hồng phiến và Heroine X mua của một người đàn ông không quen biết đứng ở đường tại bản X hết 120.000đ, mục đích để sử dụng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 18/6/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và kết luận giám định số 668/GĐ-PC09 ngày 26/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,02 gam; Mẫu viên nén màu hồng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,19 gam.

Tại bản cáo trạng số 67/CT-VKS-TPĐBP ngày 30/09/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Tòng Văn X về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Tòng Văn X từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,01 gam heroine, 0,16 gam Methamphetamine (vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh nilon màu đen, 01 mảnh nilon màu xanh Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Tòng Văn X không có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Hồi 09 giờ 30 phút ngày 18/6/2019, tại khu vực nghĩa trang, phường N, thành phố Đ, tỉnh B Tòng Văn X đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,02 gam Heroine và 0,19 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 10 giờ 00 phút ngày 18/6/2019, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 18/6/2019, kết luận giám định số 668/GĐ-PC09 ngày 26/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,02 gam; Mẫu viên nén màu hồng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,19gam.

Do đó, có đủ cơ sở khẳng định, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo, với mục đích để sử dụng là phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, Tòng Văn X phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.Tuy nhiên, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[2]. Từ những phân tích trên khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh B truy tố bị cáo Tòng Văn X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Bị cáo Tòng Văn X là người nghiện ma túy, bị cáo nhận thức rõ hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, vì vậy mức hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[3]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS, thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là làm ruộng, nhưng thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người đàn ông, nhưng không biết tên, địa chỉ của người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Vật chứng: 0,01 gam Heroine, 0,16 gam Methamphetamine (vật chứng hoàn lại sau giám định) là vật nhà nước cấm tàng trữ, 01 mảnh nilon màu đen, 01 mảnh nilon màu xanh không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE, màu sơn đỏ, BKS 27B1-109.22 kèm 01 chìa khóa xe, là của Phạm văn B, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu FPT màu vàng gold, màn hình điện thoại bị vỡ, kèm 01 sim là tài sản của bị cáo Tòng Văn X, không liên quan đến hành vi phạm tôi của bị cáo. Ngày 12/9/2019 cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe máy BKS 27B1-109.22 kèm 01 chìa khóa xe cho anh Phạm Văn B, địa chỉ: Tổ dân phố 19, phường T, thành phố Đ, tỉnh B, trả lại chiếc điện thoại nhãn hiệu FPT màu vàng gold, màn hình điện thoại bị vỡ, kèm 01 sim cho bị cáo Tòng Văn X, bị cáo ủy quyền cho bố đẻ là ông Tòng T, địa chỉ:

Đội 13, xã T, huyện B, tỉnh B nhận hộ. Xét việc trao trả này của Cơ quan điều tra là có căn cứ pháp luật, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Tòng Văn X phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Xử phạt bị cáo Tòng Văn X 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (18/6/2019).

2. Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,01 gam Heroine, 0,16 gam Methamphetamine (vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh nilon màu đen, 01 mảnh nilon màu xanh, (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/10/2019 giữa Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh B).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 66/2019/HSST ngày 05/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;