Bản án 66/2019/HNGĐ-ST ngày 17/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 66/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử công khai vụ án thụ lY số 367/2019/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 95/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Như Y, sinh năm: 1986 (có mặt). Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Lưu Văn T, sinh năm: 1986 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 20 tháng 02 năm 2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Như Y trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lưu Văn T kết hôn với nhau vào năm 2008, có đăng kY kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Bàu Cạn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 15/5/2008. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, anh T thường xuyên nhậu nhẹt, cờ bạc, nhiều lần về chửi bới, đánh đập chị. Lần gần nhất là khoảng tháng 6/2019 sau khi chị nộp đơn ly hôn, anh T đi nhậu say về nhà chửi bới đánh đập chị và đập phá nhà cha mẹ chị. Chị có mời công an xã đến làm việc và sau đó công an xã Bàu Cạn có tạm giữ anh T một đêm. Ngoài ra anh T còn có mối quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 02/2019 đến nay. Nay chị xác định tình cảm không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T để ổn định cuộc sống riêng.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung tên Lưu Văn Gia T, sinh ngày 06/01/2009 và Lưu Văn Gia Đ, sinh ngày 01/9/2012. Hiện nay hai cháu đang ở với chị. Trường hợp ly hôn chị đề nghị được nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị đang làm công nhân công ty Hwaesung thu nhập mỗi tháng khoảng 11.000.000 đồng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, để vợ chồng tự thỏa thuận.

 Về nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Lưu Văn T đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lY, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không đến Tòa làm việc nên không ghi được lời khai và không tiến hành hòa giải được.

Y kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Từ khi thụ lý, quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ theo đúng trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn là đúng theo quy định pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định pháp luật.

Về đường lối giải quyết vụ án: Chị Y và anh T xây dựng gia đình với nhau năm 2008 và có đăng kY kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bàu Cạn do cả hai tự nguyện nên quan hệ hôn nhân giữa chị Y và anh T được xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000.

Quá trình sống chung anh chị thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng đã sống ly thân mà không có biện pháp bàn bạc đoàn tụ cho thấy mục đích hôn nhân không đạt, cuộc sống chung không còn hạnh phúc. Căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 việc chị Y xin ly hôn với anh T là có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: Anh T, chị Y có 02 con chung tên Lưu Văn Gia T, sinh ngày 06/01/2009 và Lưu Văn Gia Đ, sinh ngày 01/09/2012. Hiện hai cháu T, Đ đang do chị Y nuôi dưỡng, chị Y có nguyện vọng được nuôi hai con chung sau ly hôn, hai cháu cũng có nguyện vọng được ở với mẹ nên cần tiếp tục giao hai cháu Tiến, Đạt cho chị Y nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của con chưa thành niên, phù hợp với quy định của pháp luật; tạm thời anh T không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Lưu Văn T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Quan hệ tranh chấp trong vụ án là tranh chấp ly hôn. Bị đơn anh Lưu Văn T có hộ khẩu thường trú và đang sinh sống tại xã Bàu Cạn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Thành.

[3]. Về nội dung: Chị Nguyễn Thị Như Y và anh Lưu Văn T có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bàu Cạn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai vào ngày 15/5/2008. Quá trình chung sống do tính tình vợ chồng không hòa hợp nên thường xảy ra mâu thuẫn. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt, chị Y xin ly hôn anh T tại Tòa án.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Như Y về việc xin ly hôn với anh Lưu Văn T thì thấy rằng: Chị Y, anh T kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bàu Cạn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai vào ngày 15/5/2008 nên xác định hôn nhân giữa chị Y, anh T là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, không còn khả năng hàn gắn đoàn tụ. Tại biên bản xác minh ngày 09/7/2019 Công an xã Bàu Cạn xác định giữa chị Y và anh T phát sinh mâu thuẫn đã lâu, nguyên nhân là do anh Lưu Văn T thường hay đánh đập chị Nguyễn Thị Như Y. Mặt khác trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi xét xử Tòa án đã nhiều lần gửi giấy triệu tập làm việc, hòa giải nhưng anh T không đến Tòa làm việc chứng tỏ việc anh T bỏ mặc hôn nhân, không có thiện chí hàn gắn xây dựng gia đình. Xét thấy, vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, quá trình ly thân đã lâu nhưng vợ chồng không bàn bạc đoàn tụ chứng tỏ mục đích hôn nhân không đạt. Do đó chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Y, xử cho chị Nguyễn Thị Như Y được ly hôn anh Lưu Văn T.

Về con chung: Chị Y, anh T có 02 con chung là cháu Lưu Văn Gia T, sinh ngày 06/01/2009 và Lưu Văn Gia Đ, sinh ngày 01/9/2012, hiện nay cháu T, cháu Đ đang sống với chị Y. Trường hợp ly hôn chị Y đề nghị được nuôi dưỡng hai cháu và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu về việc nuôi con của chị Y thì thấy rằng: Từ thời điểm ly thân đến nay chị Y là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng hai cháu. Mặt khác cháu Tiến cũng có Y kiến muốn được ở với chị Y. Do đó để đảm bảo cho sự phát triển một cách tốt nhất thì cần tiếp tục giao cháu Tiến và Đạt cho chị Y nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng: Do chị Y không yêu cầu nên không xem xét.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

Về nợ chung: Đương sự khai không có nên không xét.

[4] Về án phí: Chị Y là người nộp đơn xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.

Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 227, 235, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 11 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lY và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Như Y về việc xin ly hôn với anh Lưu Văn T. Xử cho chị Nguyễn Thị Như Y được ly hôn với anh Lưu Văn T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung là cháu Lưu Văn Gia T, sinh ngày 06/01/2009 và cháu Lưu Văn Gia Đ, sinh ngày 01/9/2012 cho chị Nguyễn Thị Như Y trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời anh Lưu Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn chị Y, anh T vẫn phải có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Anh T có quyền thăm nom con; không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

4. Về nợ chung: Đương sự khai không có nên không xét.

5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Như Y phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0005049 ngày 27/5/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Chị Y đã nộp đủ án phí.

Chị Y được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án, anh T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 66/2019/HNGĐ-ST ngày 17/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:66/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;