TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 66/2017/HSST NGÀY 27/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2017/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2017/HSST - QĐ ngày 15 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn H, sinh ngày 23/5/1982; sinh trú quán: Thôn C, xã Ph, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 02/12; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1957 và bà Trần Thị Ch, sinh năm 1958; vợ: Nguyễn Thị B, sinh năm 1985; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2012; tiền sự, tiền án: Không;
Nhân thân: + Tại bản án số 654/2007/HSPT ngày 23/5/2007 Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 04 năm tù về tội “Truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy”. Ngày 02/9/2009 chấp hành xong hình phạt tù.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/8/2017 đến nay (có mặt).
-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1999 (vắng mặt). Nơi cư trú: Thôn Th, xã Tr, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc. Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1985 (vắng mặt). Nơi cư trú: Thôn C, xã Ph, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 10/8/2017, Nguyễn Văn H đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1999 ở thôn Th, xã Tr hỏi mua 500.000 đồng tiền ma túy đá. H đồng ý và bảo Ph đợi lát sau sẽ mang đến bán. Sau đó H bắt xe bus đến khu vực cầu Th, thành phố H mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi 01 gói ma túy đá với giá 500.000 đồng. H về nhà chia làm hai phần, sử dụng một phần số còn lại cất dấu trong một chiếc túi ni lon để bán cho Ph.
Khoảng 14 giờ cùng ngày, Ph tiếp tục điện thoại cho H hỏi mua ma túy. H hẹn Ph đến khu vực nhà văn hóa xã V, huyện Y để trao đổi mua bán ma túy. Sau đó H đến điểm hẹn gặp Ph và Bùi Văn Y, sinh năm 1990 ở xã H. Tại đây Ph đưa cho H 500.000 đồng, H cầm tiền cất vào túi quần sau đó chỉ cho Ph gói ma túy H để ở dưới đất gần chỗ đứng, Khi Ph nhặt gói ma túy lên thì bị Công an huyện Yên Lạc bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ: Thu tại lề đường tỉnh lộ 303 thuộc thôn Ph, xã V, huyện Y 01 gói nhỏ bên ngoài bọc bằng giấy mầu trắng bên trong là túi ni lon, bên trong túi ni lon chứa chất tinh thể dạng đá màu trắng. Vật chứng được niêm phong ký hiệu A1. H khai đây là gói ma túy H để tại đó để bán cho Ph.
Thu của H 718.000 đồng trong đó có 500.000 đồng H khai là tiền vừa bán ma túy cho Ph và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu đen.
Thu của Ph 01 mẩu giấy có ghi con số “4863”, “8174”, “6659” và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen.
Cùng ngày, Công an huyện Yên Lạc ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn H tại thôn C, xã Ph, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc. Quá trình khám xét thu giữ 03 chiếc cóng thủy tinh, 02 túi ni lon màu trắng và 01 bản sao giấy khai sinh mang tên Nguyễn Thị B bị xé một góc bên trái.
Tại Cơ quan điều tra, H khai nhận về nguồn gốc ma túy bán cho Ph là do H mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi ở khu vực cầu Th, thành phố H với giá 500.000 đồng về để sử dụng và bán kiếm lời.
Tại kết luận giám định số 876/KLGĐ ngày 14/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, TT67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ. Khối lượng (trọng lượng) mẫu gửi giám định là 0,1331 gam (Không phảy một ba ba một gam, không kể bao bì). Khối lượng (trọng lượng) Methamphetamine có trong 0,1331 gam mẫu là 0,0863 gam (Không phảy không tám sáu ba gam).
Tại Cáo trạng số 71/KSĐT- MT ngày 30/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc truy tố Nguyễn Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như Cáo trạng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 02 năm 06 tháng đến 02 năm 09 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, 01 mẩu giấy có ghi các con số “4863” “8174”, “6659; 03 chiếc cóng thủy tinh; 02 túi ni lon màu trắng; 01 bản sao giấy khai sinh bị xé một góc bên trái; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000 đồng thu giữ của H, tịch thu bán phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Viettel của H và 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia của Ph.
Tại phiên tòa bị cáo nói lời sau cùng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 14 giờ ngày 10/8/2017, tại khu vực nhà văn hóa xã V thuộc thôn Ph, xã V, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Văn H đang bán trái phép 01 gói ma tuý đá cho Nguyễn Văn Ph với giá 500.000 đồng thì bị bắt quả tang. Vật chứng thu giữ 01 gói ma túy đá chứa (Methamphetamine) có trọng lượng là 0,1331 gam. Hành vi bán trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn H đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp vật chứng của vụ án, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, phù hợp lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009. Điều luật quy định: " Người nào … mua bán trái phép chất ma túy … thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.
Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước và xâm phạm trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Như chúng ta đã biết ma tuý đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ con người, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Trong khi cả xã hội đang đấu tranh để đẩy lùi tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống thì bị cáo lại làm cho tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng. Bị cáo có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy cho xã hội và cho bản thân nhưng vẫn thực hiện. Do vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Xét nhân thân bị cáo là người có sức khoẻ, phát triển bình thường về thể chất và tinh thần nhưng không chịu làm ăn chân chính. Bản thân bị cáo đã 01 lần bị Tòa án xét xử về tội “Truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy” tuy đã được xóa án nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Lẽ ra phải phạt bị cáo mức án cao, song xét thấy ở Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thực sự tỏ ra ăn năn hối cải đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng nhân thân của bị cáo là xấu.
[3] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng…”. Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Hành vi mua ma túy của Nguyễn Văn Ph Cơ quan điều tra xác minh tại thôn Th, xã Tr, huyện Y nhưng không có ai có tên tuổi như Ph khai nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào làm rõ xử lý sau.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho H, do H không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh và không đề cập xử lý là phù hợp pháp luật.
Đối với anh Bùi Văn Y làm nghề xe ôm được Ph thuê chở đi mua ma túy. Anh Y không biết mục đích của Ph nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là đúng pháp luật.
[4] Về xử lý vật chứng: Số ma tuý còn lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói mẫu A1, 01 mẩu giấy ghi số “4863”, “8174” và “6659; 03 chiếc cóng thủy tinh; 02 túi ni lon màu trắng; 01 bản sao giấy khai sinh bị xé một góc bên trái không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 500.000 đồng thu giữ của H là tiền do bán ma túy mà có cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. 02 điện thoại của H và Ph là phương tiện liên lạc mua ma túy cần tịch thu bán phát mại sung quỹ Nhà nước. Số tiền 218.000 đồng thu giữ của H không liên quan đến việc mua bán ma túy cần trả lại cho H nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự: Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/8/2017.
Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự; Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu huỷ số ma túy mẫu A1= 0,0378g và toàn bộ bao gói; 01 mảnh giấy phong bì thư ghi các con số “4863”, “8174” và “6659; 03 chiếc cóng thủy tinh; 02 túi ni lon màu trắng; 01 bản sao giấy khai sinh bị xé một góc bên trái.
Tịch thu bán phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000 đồng thu giữ của Nguyễn Văn H. (Các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 12 năm 2017 giữa Công an huyện Yên Lạc và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Lạc).
Trả lại cho Nguyễn Văn H 218.000 đồng nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 66/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 66/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về