Bản án 66/2017/HSST ngày 14/09/2017 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 66/2017/HSST NGÀY 14/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên, Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 71/2017/HSST ngày 30/8/2017 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo: Lùng A S (Tên gọi khác: Không ); Sinh năm: 1979; Sinh tại: Huyện M, tỉnh Điện Biên; Trú tại: Bản C, xã Ch, huyện M, Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Hà Nhì; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Lùng Mó Ch (Đã chết) và bà: Chương Hừ D (SN: 1952); Có vợ là: Chang Lý X (SN: 1980) và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Nhân thân: Ngày 12/6/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bị bắt tạm giữ từ ngày 29/4/2017 đến ngày 02/5/2017, tạm giam từ ngày 02/5/2017 đến nay. Có mặt tạiphiên tòa.

2. Bị cáo: Vù Khừ X  (Tên gọi khác: Không )  Sinh năm: 1975; Sinh tại: Huyện M, tỉnh Lai Châu; Trú tại: Bản N, xã Ch, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hoá: 2/12; Dân tộc: Hà Nhì; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Vù Go X (Đã chết) và bà: Khoàng Go P (SN: 1956); Có vợ là: Lỳ Hu P (SN: 1975) và có 04 con, con lớn nhất sinh năm 1996, con nhỏ nhất sinh năm 2006. Tiền sự: Không; Tiền án: 01; Ngày 10/02/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Bị bắt tạm giữ từ ngày 29/4/2017 đến ngày 02/5/2017, tạm giam từ ngày02/5/2017 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Các bị cáo Lùng A S, Vù Khừ X bị Viện kiểm sát nhân dân huyện MườngNhé truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 09 giờ 40 phút ngày 29/4/2017 Tổ công tác Công an huyện Mường Nhé làm nhiệm vụ tại khu vực bản C, xã Ch, huyện M, tỉnh Điện Biên phát hiện Lùng A S đang chuẩn bị sử dụng thuốc phiện tại nhà. Qua kiểm tra thu giữ của S 01 gói thuốc phiện, S khai số thuốc phiện trên được mua của Vù Khừ X (trú tại bản N, xã Ch) với số tiền 500.000đ về để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng. Cơ quan CSĐT đã ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Vù Khừ X về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ tại nhà X 01 bộ đèn bàn tự tạo dùng để hút thuốc phiện.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Lùng A S khai nhận: Nguồn gốc số thuốc phiện trên là do vào khoảng 06 giờ ngày 28/4/2017 Lùng A S đi bộ một mình từ nhà ở bản Cây M, xã Ch đến bản N, xã Ch để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi qua nhà Vù Khừ X, S hỏi mua được 01 gói thuốc phiện của X với giá 500.000đ rồi đi bộ về nhà. Đến nhà Sơ lấy gói thuốc phiện đó cắt ra một ít để sử dụng rồi đem đi cất giấu ở đầu giường ngủ. Đến khoảng 09 giờ 40 phút ngày 29/4/2017 S lấy gói thuốc phiện trên ra để sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện Mường Nhé phát hiện bắt giữ. Vù Khừ X khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 27/4/2017 khi X đang ở lán nương của X ở bản N, xã Ch thì có một người đàn ông dân tộc Mông (X không biết tên tuổi, địa chỉ) vào chơi, qua nói chuyện X mua được 01 gói thuốc phiện của ông ta với giá 400.000đ. Sau đó X đi bộ về nhà, người đàn ông đó đi đâu làm gì X không biết. Về đến nhà, X lấy một ít thuốc phiện ra sử dụng rồi cất vào tủ đầu giường ngủ. Đến khoảng 07 giờ ngày 28/4/2017 khi X đang ở nhà một mình thì Lùng A S đến hỏi mua thuốc phiện về sử dụng, X bán cho S gói thuốc phiện với giá 500.000đ.

Ngày 02/5/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Nhé cùng với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành mở niêm phong, xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng, Trọng lượng thuốc phiện thu giữ của Lùng A S là 14,81 gam. Tại bản kết luận giám định số: 477/GĐ-PC54 ngày 14/6/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất dẻo màu nâu đen gửi giám định của Lùng A S là Thuốc phiện.

Tại bản cáo trạng số: 56/QĐ-VKS-HS ngày 30/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé đã truy tố Lùng A S để xét xử về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; Truy tố Vù Khừ X để xét xử về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát duy trì công tố tại phiên tòa hôm nay giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999, khoản 3 Điều 7, điểm b khoản 1 Điều 249 BLHS 2015, Nghị quyết 41 của Quốc hội, xử phạt bị cáo Lùng A S từ 18 đến 26 tháng tù; Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999, xử phạt bị cáo Vù Khừ X từ 28 đến 36 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 194 BLHS đối với các bị cáo; Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy vật chứng vụ án, buộc bị cáo Vù Khừ X nộp lại số tiền 500.000đ để sung Quỹ Nhànước và miễn án phí cho các bị cáo.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lùng A S, Vù Khừ X thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và không tranh luận gì với luận tội của Viện kiểm sát, các bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo với lý do gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng đã có đủ cơ sở để khẳng định: Vào khoảng 09 giờ 40 phút ngày 29/4/2017 khi Lùng A S đang chuẩn bị sử dụng thuốc phiện tại nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Mường Nhé phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng là hoàn toàn đúng sự thật. Hành vi tàng trữ trái phép 14,81 gam thuốc phiện nhằm mục đích để sử dụng của Lùng A S đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS, đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố

Hành vi bán trái phép 14,81 gam thuốc cho Lùng A S của Vù Khừ X nhằm kiếm lời đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS, đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Đây là vụ án nghiêm trọng về ma túy, mặc dù các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song chỉ vì muốn có ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện và bán lẻ kiếm lời bất chính, các bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây những tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, gây mất trật tự trị an, cản trở tới việc thực hiện các chính sách kinh tế, làm gia tăng các tệ nạn xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Do vậy cần xử lý các bị cáo có mức hình phạt thỏa đáng phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Các bị cáo là người có nhân thân xấu: Bị cáo Lùng A S đã từng có 01 tiền án về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bị cáo Vù Khừ X có 01 tiền án về tội "Trộm cắp tài sản", chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội. Đó là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 48 BLHS đối với bị cáo Vù Khừ X. Tuy nhiên trong quá trình điều tra truy tố cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS.

Từ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé, đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Lùng A S từ 18 đến 26 tháng tù, bị cáo Vù Khừ X từ 28 đến 36 tù. Xét thấy đề nghị này của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Do đó cần xem xét, xử phạt các bị cáo như đề nghị của Viện Kiểm sát.

Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình của các bị cáo còn nhiều khó khăn, thuộc diện hộ nghèo. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 194 BLHS đối với các bị cáo.

Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán thuốc phiện cho bị cáo Vù Khừ X, do X không biết họ tên, địa chỉ của người này ở đâu nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở xác minh và không đặt vấn đề xử lý trong vụ án.

Số tiền 500.000đ là tiền Vù Khừ X bán thuốc phiện cho Lùng A S mà có nên cần truy thu sung Quỹ Nhà nước.

Về vật chứng vụ án: 12,36 gam thuốc phiện còn lại sau giám định và 01 bộ đèn bàn từ tạo dùng để hút thuốc phiện cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Xét thấy các bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn đề nghị miễn án phí. Do đó cần miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lùng A S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý", bị cáo Vù Khừ X phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý".

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 BLHS năm 1999, khoản 3 Điều 7, điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015, Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội. Xử phạt bị cáo Lùng A S 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 29/4/2017.

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 BLHS năm 1999.  Xử phạt bị cáo Vù Khừ X 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 29/4/2017.

Áp dụng khoản 1 Điều 228 BLTTHS: Tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 41 BLHS; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu huỷ 12,36 gam thuốc phiện và 01 bộ đèn bàn tự tạo dùng để hút thuốc phiện là vật chứng vụ án. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/8/2017 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.

- Truy thu số tiền 500.000đ là tiền do phạm tội mà có của Vù Khừ X đểsung Quỹ Nhà nước.

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm,thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Lùng A S, Vù Khừ X.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 66/2017/HSST ngày 14/09/2017 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:66/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;