TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM – TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 65/2023/HS-ST NGÀY 07/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2023/TLST-HS ngày 20/3/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2023/QĐXXST-HS ngày 24/3/2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Từ Ngọc T, sinh năm: 1996 tại N.
HKTT: Xóm B, xã N, huyện N, tỉnh N.
Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Không.
Trình độ học vấn: 7/12 - Nghề nghiệp: Không.
Con ông Từ Minh A, sinh năm: 1972 và bà Phan Thị P, sinh năm: 1978; có vợ là chị Dương Thị Song T, sinh năm: 1996 (đã ly hôn) và một con sinh năm 2017.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị giam giữ từ ngày 23/10/2022 tại Trại tạm giam B5 – Công an tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Võ Ngọc T, sinh năm: 1973, địa chỉ: Ấp T, xã T, thành phố P, tỉnh B.
2. Chị Võ Thị Thùy A, sinh năm: 2000, địa chỉ: địa chỉ: Ấp T, xã T, thành phố P, tỉnh B.
- Người làm chứng: Nguyễn Quốc C, sinh năm: 1972 (bị cáo có mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ ngày 23 tháng 10 năm 2022, Từ Ngọc T đã có hành vi cất 01 gói ma túy và 01 cân tiểu ly vào trong túi vải đeo trên người, sau đó điều khiển xe mô tô biển số 86C1-694.xx từ thành phố Hồ Chí Minh đến huyện Trảng Bom để bán ma túy cho một người không rõ họ tên, có địa chỉ ở khu vực ấp 4, xã An Viễn, huyện Trảng Bom. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, Từ Ngọc T ghé ăn tối tại Quán bún đậu thuộc ấp 4, xã An Viễn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, trong lúc đợi giao ma túy thì bị Công an xã An Viễn phối hợp Đội Kinh tế - Ma túy Công an huyện Trảng Bom kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang, thu giữ:
- 01 gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng, 01 cân tiểu ly không rõ nhãn hiệu.
- 01 điện thoại OPPO F9 gắn số sim: 08265xx383 và 01 xe mô tô biển số: 86C1-694.xx.
Ngày 24/10/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trưng cầu giám định số ma túy thu giữ nêu trên. Tại bản Kết luận giám định số 2246/KLGĐ-PC09 ngày 31/10/202 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma tuý, có khối lượng: 49,6632 gam loại Ketamine.
Tại Cáo trạng số 76/CT-VKS-TB ngày 15/3/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố Từ Ngọc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.
Về xử lý vật chứng:
Đối với khối lượng 49,5787 gam ma túy còn lại sau giám định được niêm phong số 2246/KLGĐ-PC09 ngày 01/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai đề nghị Tòa tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 cân tiểu ly không rõ nhãn hiệu và 01 điện thoại OPPO F9 gắn số sim: 08265xx383 là công cụ và phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội đề nghị Tòa tịch thu sung công.
Đối với 01 xe môtô Vision biển kiểm soát 86C1-694.xx, kết quả tra cứu xác định do ông Võ Ngọc T là chủ sở hữu. Năm 2022 ông T cho chị Võ Thị Thùy A (con ruột của ông T) mượn để đi học ở thành phố Hồ Chí Minh, chị A là bạn gái của bị cáo. Ngày 22/10/2022, chị A cho bị cáo mượn xe mô tô 86C1-694.xx để đi lại. Việc bị cáo sử dụng xe mô tô 86C1-694.xx làm phương tiện phạm tội chị A và ông T không biết nên Cơ quan điều tra trả lại xe cho ông Võ Ngọc T.
Đối với đối tượng tên Lâm, bị cáo khai là bạn quen biết ngoài xã hội và cũng là người thuê bị cáo bán ma túy nhiều lần và được trả tiền công trên mỗi lần bán ma túy. Quá trình điều tra xác định được chỉ có lời khai của bị cáo, không có chứng cứ, tài liệu nào khác để chứng minh nội dung này; đồng thời quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng tên Lâm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom không có căn cứ xử lý.
Đối với đối tượng mua ma túy tại khu vực ấp 4, xã An Viễn, huyện Trảng Bom, bị cáo khai đã liên hệ qua telegram để hẹn giao ma túy và sau khi gọi xong bị cáo đã xóa lịch sử cuộc gọi và cũng không nhớ số. Quá trình điều tra, không có căn cứ để xác định nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện không có căn cứ xử lý.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và căn cứ điểm n khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt: Bị cáo Từ Ngọc T mức án từ 07 năm 10 tháng tù đến 08 năm 06 tháng tù.
- Bị cáo không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố; hành vi tố tụng của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[1.2] Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng: Đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt, tuy nhiên đã có lời khai trong quá trình điều tra và không ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt.
[2] Về trách nhiệm hình sự:
Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu được và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đúng như hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra trước tòa, cho thấy bị cáo đã có hành vi phạm tội như sau:
Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 23/10/2022, tại ấp 4, xã An Viễn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, khi Từ Ngọc T đang tàng trữ 49,6632 gam loại: Ketamine để bán thì bị Công an xã An Viễn phối hợp Đội Kinh tế - Ma túy Công an huyện Trảng Bom kiểm tra phát hiện và bắt quả tang.
Như vậy, có đủ căn cứ và cơ sở để xác định hành vi của bị cáo Từ Ngọc T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về các chất ma túy của Nhà nước, trực tiếp là hoạt động mua bán trái phép chất ma túy và xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời bị cáo có một tiền sự về cai nghiện bắt buộc nên cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội.
Tình tiết tăng nặng: Không.
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình; có ông nội và bà ngoại là người có công với cách mạng là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần mức án cho bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong phong bì niêm phong sau giám định số 2246/KL-KTHS ngày 01/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai; 01 sim có số seri 898402000 11186153670.
Đối với 01 cân tiểu ly không rõ nhãn hiệu và 01 điện thoại OPPO F9 đã qua sử dụng là công cụ và phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Đối với 01 xe môtô Vision biển số 86C1-694.xx, kết quả tra cứu xác định do ông Võ Ngọc T là chủ sở hữu. Năm 2022, ông T cho chị Võ Thị Thùy A (con ruột của ông T) mượn để đi học ở thành phố Hồ Chí Minh, chị A là bạn gái của bị cáo. Ngày 22/10/2022, chị A cho bị cáo mượn xe mô tô để đi lại. Việc bị cáo sử dụng xe mô tô 86C1-694.xx làm phương tiện phạm tội chị A và ông T không biết nên Cơ quan điều tra trả lại xe cho ông Võ Ngọc T là đúng quy định.
[5] Vấn đề khác:
Đối với đối tượng tên Lâm, bị cáo khai là bạn quen biết ngoài xã hội và cũng là người thuê bị cáo bán ma túy nhiều lần và được trả tiền công trên mỗi lần bán ma túy. Quá trình điều tra xác định được chỉ có lời khai của bị cáo, không có chứng cứ, tài liệu nào khác để chứng minh nội dung này; đồng thời quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng tên Lâm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom không có căn cứ xử lý.
Đối với đối tượng mua ma túy tại khu vực ấp 4, xã An Viễn, huyện Trảng Bom, bị cáo khai đã liên hệ qua telegram để hẹn giao ma túy và sau khi gọi xong bị cáo đã xóa lịch sử cuộc gọi và cũng không nhớ số. Quá trình điều tra, không có căn cứ để xác định nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện không có căn cứ xử lý.
[6] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[7] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố bị cáo Từ Ngọc T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Từ Ngọc T 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/10/2022.
2. Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong phong bì niêm phong sau giám định số 2246/KL-KTHS ngày 01/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai; 01 sim có số seri 898402000 11186153670.
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 cân tiểu ly không rõ nhãn hiệu và 01 điện thoại OPPO F9 đã qua sử dụng.
Vật chứng nêu trên đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/3/2023.
3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Từ Ngọc T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 65/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 65/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về