TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 65/2023/HS-ST NGÀY 23/02/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2023/HSST ngày 13 tháng 01 năm 2023. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2023/QĐXXST-HS ngày 06/02/2023 đối với bị cáo:
Phạm Thành H (tên gọi khác: Đ hai cơ), sinh năm 1976; giới tính: Nam; nơi sinh: Đồng Nai; Nơi cư trú: Tổ 10, khu phố LK, phường TP, thành phố BH, tỉnh ĐN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Cha: Phạm Văn T, sinh năm 1953 (chết); Mẹ: Bùi Thị Q, sinh năm 1948, còn sống; Gia đình bị cáo có 08 anh chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; bị cáo sống như vợ chồng với bà Lý Thị Thu H1, sinh năm 1980 và có 01 con tên Phạm Thị Thanh H2, sinh năm 2003; Tiền án: Ngày 25/6/2015, bị Toà án nhân dân thành phố BH, tỉnh ĐN xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo bản án số: 332/2015/HS-ST (chưa được xoá án tích); tiền sự: Không; bị cáo bị bắt truy nã ngày 17/10/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 1084/LTG ngày 21/10/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an thành phố Biên Hòa; bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa; Bị cáo có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Thành H là người sử dụng trái phép chất ma túy tổng hợp (hàng đá). Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 04/12/2021, H đến khu vực Sân Golf Long Thành thuộc phường PT, thành phố BH, tỉnh ĐN và mua của một người đàn ông tên là H3 (không rõ lai lịch) 01 tép ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng). Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, Hồ Tuấn N, sinh năm 2000, thường trú: Tổ 8, khu phố LK2, phường TP, thành phố BH, tỉnh ĐN gọi điện cho H qua số thuê bao 083X085 hỏi mua ma tuý tổng hợp (hàng đá) với giá 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), H đồng ý. Do không có tiền nên N thoả thuận với H dùng điện thoại di động cầm cho H để mua ma tuý với giá 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), H đồng ý và hẹn đến Tổ 2, khu phố LK2, phường TP, thành phố BH để giao ma tuý và nhận điện thoại. Tiếp đến, N lấy 01 điện thoại di động hiệu Huawie của Huỳnh Thanh T1, sinh năm 1993; thường trú tại tổ 8, khu phố LK2, phường TP, thành phố BH, tỉnh ĐN (là bạn của N) rồi đưa cho Nguyễn Thị Thanh T3, sinh năm 2000, địa chỉ: Tổ 8, khu phố LK2, phường TP, thành phố BH, tỉnh ĐN (là vợ của N) để T2 mang đến đưa cho H rồi nhận ma tuý mang về đưa cho N và T1 cùng sử dụng.
Khoảng 12 giờ cùng ngày, H mang 01 tép ma tuý đến điểm hẹn tại đoạn đường thuộc tổ 2, khu phố LK2, phường TP, thành phố BH, tỉnh ĐN thì gặp Nguyễn Thị Thanh T2. Khi H chưa kịp giao ma tuý cho T2 thì H nhìn thấy Tổ tuần tra Công an phường TP nên H đã ném tép ma tuý xuống đất cách nơi H đứng khoảng 02m thì bị Tổ tuần tra phát hiện bắt quả tang H cùng tang vật.
Công an phường TP đã bàn giao hồ sơ và H cho Cơ quan CSĐT Công an thành phố BH để thụ lý điều tra theo thẩm quyền. Tại thời điểm bị bắt, H bị nhiễm Covid 19 nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố BH không áp dụng biện pháp ngăn chặn và trả tự do đối với H. Sau đó H bỏ trốn khỏi địa phương và bị truy nã. Đến ngày 17/10/2022, H bị bắt theo lệnh truy nã.
Quá trình điều tra, ban đầu H không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, nhưng sau đó đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung đã nêu trên.
* Vật chứng vụ án:
- Thu giữ của Phạm Thành H:
+ 01 (Một) đoạn ống nhựa hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong có chữ ký ghi rõ họ tên của Phạm Thành H và hình dấu tròn màu đỏ của Công an phường TP (Ký hiệu M).
+ 01 (Một) điện thoại hiệu Nokia 1280, số thuê bao 083X085, số Imei: 354148/05/533961/7 của H sử dụng liên lạc bán ma tuý.
+ 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirus biển số 68S9-X, số máy 478831, số khung 478830: Qua tra cứu tại Phòng CSGT Công an tỉnh ĐN thì biển số xe 68S9-X là của xe hiệu RIVER do anh Nguyễn Thế T3, ngụ ấp MT, xã MT, huyện UMT, tỉnh KG đứng tên chủ sở hữu. H mượn xe mô tô trên của anh Lê Mộng A, sinh năm 1965, ngụ tổ 5, khu phố LK1, phường TP, thành phố BH, tỉnh ĐN, anh Mộng A khai mua xe mô tô trên tại một Salon xe ở phường TM (không rõ). Hiện chưa làm rõ nguồn gốc xe mô tô trên. Cơ quan CSĐT Công an thành phố BH tách ra tiếp tục xác minh, xử lý sau.
- Thu giữ của Nguyễn Thị Thanh T2: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu vàng, số Imei 353010091702409, 01 điện thoại di động hiệu HuaWei ATU-L42 không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho T2.
- Thu giữ của Hồ Tuấn N: 01 điện thoại di động OPO A15S, số thuê bao 090X451, số Imei 862562055979617 không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho N.
Kết luận giám định số: 2359/KLGĐ-PC09 ngày 10/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh ĐN kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma tuý, có khối lượng 0,2020 gam, loại: Menthamphetamine.
Đối với người đàn ông tên H3 (chưa rõ lai lịch) đã bán ma tuý cho Phạm Thành H, Cơ quan CSĐT Công an thành phố BH tiếp tục điều tra, xử lý sau.
Đối với Hồ Tuấn N, Nguyễn Thị Thanh T2 và Huỳnh Minh T1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý, Uỷ ban nhân dân phường TP, thành phố BH đã ra Quyết định xử phạt hành chính.
Cáo trạng số: 43/CT-VKSBH ngày 13/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Phạm Thành H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo Phạm Thành H và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):
- Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Phạm Thành H mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị HĐXX tuyên:
+ Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng ma túy còn lại sau giám định.
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại Nokia 1280, số Imei 354148/05/533961/7 của bị cáo H sử dụng vào việc phạm tội.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Bị cáo Phạm Thành H nói lời sau cùng: Bị cáo kính xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức thấp nhất để sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2.]. Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thành H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa, lời khai của bị cáo, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu thu thập được có tại hồ sơ đã đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Phạm Thành H là người sử dụng ma túy. Vào khoảng 12 giờ 10 phút ngày 04/12/2021, tại đoạn đường thuộc tổ 2, khu phố LK2, phường TP, thành phố BH, tỉnh ĐN, H đang bán 01 tép ma tuý tổng hợp (hàng đá) với giá 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) cho bà Nguyễn Thị Thanh T2, sinh năm 2000, địa chỉ: Tổ 8, khu phố LK2, phường TP, thành phố BH, tỉnh ĐN nhưng chưa kịp giao ma tuý và nhận tiền thì bị Công an phường TP phát hiện bắt quả tang. Theo Kết luận giám định số: 2359/KLGĐ-PC09 ngày 10/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma tuý, có khối lượng 0,2020 gam, loại: Mentham phetamine.
Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Thành H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ.
Ma túy là hiểm họa của con người, là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, cướp giật, mại dâm… Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về quản lý các chất cấm, gây mất an ninh, trật tự trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo có một tiền án, ngày 25/6/2015, bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo bản án số: 332/2015/HS-ST (bị cáo chưa được xoá án tích), bị cáo không soi bản án trên làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục cố ý phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.
[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[5]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.
[6]. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định trong 01 gói niêm phong số: 2359 ngày 10/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Đồng Nai.
- 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen, số Imei 354148/05/533961/7 của bị cáo Hiếu sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.
[7]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Phạm Thành H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[8]. Xét quan điểm của đại diện VKSND thành phố Biên Hòa tại phiên tòa phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); các Điều 45, 106, 135, 136, 326, 327, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Phạm Thành H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Phạm Thành H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/10/2022.
2. Về xử lý vật chứng:
+ Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định trong 01 (Một) gói niêm phong số: 2359 ngày 10/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Đồng Nai.
+ Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 (Một) điện thoại Nokia 1280, số Imei 354148/05/533961/7 của bị cáo H sử dụng vào việc phạm tội theo quy định.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/01/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).
3. Về án phí: Bị cáo Phạm Thành H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án theo quy định của pháp luật.
Bản án 65/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 65/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/02/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về