Bản án 65/2021/HSST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 65/2021/HSST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Moong Văn T; tên gọi khác: Không; sinh ngày 27/4/1994, tại xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: bản L, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: Lớp 01/12; dân tộc: Khơ mú; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Moong Văn T (đã chết) và bà Ốc Thị M; có vợ là Lô Thị C và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/12/2020 đến nay; hiện đang tạm giam; Có mặt.

2. Họ và tên: Lo Văn N; tên gọi khác: Không; sinh ngày 05/7/1990, tại xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: bản L, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: Lớp 7/12; dân tộc: Khơ mú; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lo Văn L và bà Cụt Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/12/2020 đến nay; hiện đang tạm giam; Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Moong Văn T: Bà Võ Thị Hoài-Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lo Văn N: Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai-Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Moong Văn N; sinh năm 1983; nơi cư trú: Bản L, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Lô Bún M; sinh năm 1986; nơi cư trú: Bản K, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 09/12/2020, Moong Văn T điều khiển xe máy BKS:

37K1- 131.31 đi từ nhà tại bản L, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An đến nhà của Lo Văn N trú cùng bản để rủ N đi chơi tại bản C, xã L, huyện T thì N đồng ý. Sau đó, Tòa điều khiển xe máy chở N đi đến khu vực bản C, xã L, huyện T, tỉnh Nghệ An. Khi đến nơi, N hỏi T “Cậu có tiền không?”, T trả lời “Có năm mươi nghìn”, N nói tiếp “Đi mua ma túy chơi đi” thì T đồng ý. Sau đó, T và N đi bộ đến nhà một người đàn ông tên Q hỏi mua của người này 01 gói ma túy (Heroine) với số tiền 50.000đồng (Năm mươi nghìn). Mua được ma túy, T chia thành hai phần, một phần gói bằng giấy trắng có chữ đưa cho N cầm, phần còn lại gói bằng giấy trắng có dòng kẻ T cầm ở tay trái. Sau đó, T và N lấy gói ma túy gói bằng giấy trắng có chữ trích một ít sử dụng, số còn lại N gói lại như cũ cầm ở tay trái rồi hai người đi lên lấy xe máy điều khiển về nhà. Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 09/12/2020, khi T và N về đến khu vực bản L, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ số tang vật trên.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 09/12/2020 của Hội đồng mở niêm phong Công an huyện Kỳ Sơn đã xác định: 01 (một) gói chất màu trắng (nghi là ma túy) gói bằng giấy trắng có dòng kẻ; 01 (một) gói chất màu trắng (nghi là ma túy) gói bằng giấy trắng có chữ thu giữ của Moong Văn T và Lo Văn N có tổng khối lượng là 0,15gam (không phẩy mười lăm).

Kết luận giám định số 1554/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 14/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu chất màu trắng thu giữ của Moong Văn T và Lo Văn N gửi tới giám định là ma túy (Heroine).

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Kỳ Sơn, Moong Văn T và Lo Văn N đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Về vật chứng của vụ án: Số ma tuý (Heroine) là vật chứng còn lại có khối lượng 0,1gam (không phẩy một) và vỏ giấy niêm phong ban đầu đã được Cơ quan điều tra chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn bảo quản theo quy định. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu sơn đỏ- đen, BKS: 37K1- 131.31 mà Moong Văn T và Lo Văn N sử dụng đi mua túy, quá trình điều tra xác định chiếc xe thuộc sở hữu của anh Moong Văn N. Anh N không biết việc T và N sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy nên ngày 18/01/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn đã trả lại cho anh Moong Văn N.

Cáo trạng số: 28/CT-VKS-KS ngày 14/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn đã truy tố bị cáo Moong Văn T và Lo Văn N về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Moong Văn T và Lo Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Moong Văn T mức án từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lo Văn N mức án từ 13 (Mười ba) đến 15 (Mười lăm) tháng tù. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Moong Văn T, Lo Văn N đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không có tranh luận gì.

Người bào chữa cho các bị cáo Moong Văn T và Lo Văn N trình bày: Về tội danh và điều luật áp dụng đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ như: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, xử phạt các bị cáo mức án thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Các bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định pháp luật.

[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến. Do sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử là có căn cứ, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi của các bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra, các bị cáo Moong Văn T, Lo Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 09/12/2020, tại bản L, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An, Moong Văn T và Lo Văn N đang có hành vi tàng trữ 02 (hai) gói ma túy (Heroine) có tổng khối lượng là 0,15gam (không phẩy mười lăm) nhằm mục đích để sử dụng.

Hành vi đó của các bị cáo Moong Văn T và Lo Văn N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;

a)……………………………………………………….

c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; Nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện. Khi phạm tội các bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế xã hội cũng như sức khỏe của con người và cũng làm mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, nhưng các bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, vì vậy hành vi đó phải được xử lý nghiêm minh, cần tuyên phạt các bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện, việc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới đủ điều kiện để vừa tiếp tục cải tạo, giáo dục riêng bị cáo vừa răn đe phòng ngừa chung.

Đây là vụ án có đồng phạm nên phải phân hóa hành vi của mỗi bị cáo để lên cho mỗi bị cáo một mức án phù hợp với tính chất vai trò của từng bị cáo. Đối với bị cáo Lo Văn N thực hiện tội phạm với vai trò là người khởi xướng, rủ rê người khác đi mua ma túy, nên cần phải xem xét mức án cao hơn. Đối với bị cáo Moong Văn T, do bị rủ rê, lôi kéo nhưng đã thực hiện tội phạm một cách tích cực và là người bỏ tiền để mua ma túy, mặc dù giữ vai trò thứ yếu nhưng phải chịu trách nhiệm do chính hành vi mà mình đã gây ra.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Moong Văn T và Lo Văn N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên xét thấy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

[6] Trong vụ án này còn có người đàn ông tên Q, trú tại bản C, xã L, huyện T, tỉnh Nghệ An đã bán ma túy cho Moong Văn T và Lo Văn N quá trình điều tra xác minh tại địa phương không có ai tên là Q nên không có căn cứ để xử lý.

[7] Về vật chứng vụ án: Số ma tuý (Heroine) còn lại có khối lượng 0,1gam (Không phẩy một) và vỏ giấy niêm phong ban đầu, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần phải tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu sơn đỏ- đen, BKS: 37K1- 131.31 mà Moong Văn T và Lo Văn N sử dụng đi mua túy, quá trình điều tra xác định chiếc xe thuộc sở hữu của anh Moong Văn N. Anh N không biết việc T và N sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy nên ngày 18/01/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn đã trả lại cho chủ sở hữu anh Moong Văn N là đúng theo quy định của pháp luật.

[8] Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và mức hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố các bị cáo Moong Văn T và Lo Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Moong Văn T 13 (Mười ba) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 09/12/2020).

Xử phạt bị cáo Lo Văn N 14 (Mười bốn) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 09/12/2020).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) phong bì màu trắng góc trái bên trên có dòng chữ “CÔNG AN TỈNH NGHỆ AN, CÔNG AN HUYỆN KỲ SƠN”, đang niêm phong, dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của hội đồng tham gia niêm phong và ghi tên của bị cáo Moong Văn T và Lo Văn N, bên trong có chứa 0,1gam (không phẩy một) ma túy (Heroine) và vỏ giấy niêm phong ban đầu. (Vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 15 giờ 00 phút, ngày 16/3/2021 giữa Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Moong Văn T và Lo Văn N mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 23/4/2021). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án đối với phần có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 65/2021/HSST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;