TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 65/2021/HSPT NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15-01-2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 268/2021/TLPT-HS ngày 23-7-2020 đối với bị cáo Trần Quang Đ, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
- Bị cáo có kháng cáo:
Trần Quang Đ, sinh ngày 18-6-1995, tại tỉnh Quảng Ngãi; địa chỉ cư trú: Thôn M, xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Thợ xăm; con ông Trần Quốc Th và bà Phạm Thị Thúy H; tiền án, tiền sự: không; bị bắt ngày 14-9-2019, hiện đang tạm giam Trại Tạm giam Công an tỉnh Quảng Ngãi, có mặt tại phiên tòa.
- Người tham gia tố tụng khác có liên quan đến kháng cáo:
Người bào chữa cho bị cáo Trần Quang Đ: Luật sư Nguyễn Bá Nh - Văn phòng Luật sư P, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng:
1. Anh Hà Minh T (tên gọi khác: An), sinh năm 1996; địa chỉ cư trú: Thôn A, xã Hl, huyện N1, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Đức N2, sinh năm 2000; địa chỉ cư trú: Thôn Pl, xã Đ, huyện Ml, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
3. Anh Nguyễn Quốc Tr, sinh ngày 28-4-2002; địa chỉ cư trú: Thôn 01, xã Đl, huyện Ml, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
4. Anh Nguyễn Quang T2 (Tên gọi khác: Cồ), sinh năm 1989; địa chỉ cư trú : TDP 3, TT. S, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
5. Anh Nguyễn Tấn T3, sinh năm 1991; địa chỉ cư trú: Thôn 01, xã Đl, huyện Ml, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
6. Bà Trần Thị Thu T4, sinh năm 1956; địa chỉ cư trú: Thôn 3, xã Đl, huyện M1, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
Người chứng kiến:
Anh Nguyễn Thanh T5, sinh năm 1977; địa chỉ cư trú:Thôn 3, xã Đl, huyện Ml, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 18 giờ 00 phút ngày 13-9-2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M1 tiến hành làm việc với Trần Quang Đ tại Tiệm xăm Đ - Tatto (do Đ làm chủ) ở thôn 3, xã Đl, huyện Ml, tỉnh Quảng Ngãi. Quá trình làm việc, Đ khai nhận về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với mục đích vừa sử dụng vừa bán kiếm lời và tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M1 01 (một) túi nylon lớn có chứa những hạt tinh thể màu trắng và 02 (hai) túi nylon nhỏ có chứa những hạt tinh thể màu trắng. Đ khai tất cả là ma túy đá.
Tiến hành khám xét khẩn cấp tại tiệm xăm Đ - Tatto của Trần Quang Đ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M1 phát hiện và thu giữ 02 (hai) túi nylon có chứa những hạt tinh thể màu trắng; 02 (hai) điện thoại di động; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy, gồm bình thủy tinh có gắn ống thủy tinh và ống hút; 04 (bốn) ống hút bằng nhựa; 04 (bốn) ống thủy tinh và 01 (một) cân tiểu ly điện tử.
Tại Bản kết luận giám định số 733/KLGĐ-PC09 ngày 16-9-2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận:
- Chất rắn, dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong phong bì thứ nhất gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methamphetamine có khối lượng là 49,02 gam.
- Chất rắn, dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong phong bì thứ hai gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methamphetamine, có khối lượng 4,01 gam.
- Chất rắn, dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong phong bì thứ ba gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methamphetamine, có khối lượng là 0,39 gam.
(Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II,STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).
Tổng khối lượng chất ma túy Methamphetamine là 53,42 gam.
Quá trình điều tra Trần Quang Đ khai nhận: Đ sử dụng ma túy “đá” và từ khoảng tháng 3-2019, Đ mua của T6 để vừa sử dụng vừa bán cho các đối tượng nghiện khác, nhưng sau khi T6 bị bắt, Đ không bán ma túy nữa. Sau đó, do có nhiều người hỏi mua ma túy để sử dụng, thì Đ mua ma túy “đá” của một người phụ nữ tên “Me” (không rõ nhân thân, lai lịch) phân chia thành nhiều túi ma túy nhỏ để vừa sử dụng vừa bán. Đ đã bán cho Hà Minh T (An), Nguyễn Quốc Tr và một số người khác Đ biết mặt (không biết tên). Khoảng ngày 10-9-2019, Đ tiếp tục mua 01 (một) túi ma túy “đá” của bà Me, với giá 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) rồi phân chia ra làm 25 (hai mươi lăm) túi ma túy “đá” nhỏ. Đ bán cho đối tượng tên “Mập” (không rõ nhân thân lai lịch) 02 túi ma túy “đá”, với số tiền 700.000 đồng; bán cho Hà Minh T (An) 01 (một) túi ma túy “đá”, với số tiền 400.000 đồng; 02 (hai) túi ma túy “đá”, Đ sử dụng với Nguyễn Quang T2 (Cồ); còn lại 20 túi ma túy “đá” Đ cất giấu tại tiệm xăm Đ - Tatto. Ngoài ra, trong thời gian khoảng đầu tháng 9-2019, Đ nhận được điện thoại của một người tên T7 (không rõ nhân thân, lai lịch) nói với Đ có gói ma túy “đá” người khác đặt mua, nhưng không lấy nên nhờ Đ lấy giùm với giá tiền 15.000.000 đồng và khi nào Đ bán hết sẽ lấy tiền sau, Đ đồng ý. Sau đó, Đ nhận 01 túi nylon lớn bên trong chứa ma túy “đá” do T7 chuyển từ Thành phố Hồ Chí Minh bằng xe khách đi từ Nam ra Bắc (không rõ hãng xe) tại Quốc lộ 1A (đoạn qua xã Đ1, huyện Ml, tỉnh Quảng Ngãi) rồi đem ma túy cất giấu. Đến ngày 13-9-2019, trong quá trình làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ml, Đ khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích vừa sử dụng, vừa bán kiếm lời và tự nguyện giao nộp ma túy đang cất giấu trong tiệm xăm.
Tuy nhiên, ngày 23-9-2019, Trần Quang Đ thay đổi lời khai, bị cáo khai mục đích bị cáo mua ma túy “đá” để sử dụng, còn túi ma túy đá của T7 bị cáo chỉ nhận giữ giùm.
Vật chứng thu giữ:
- 01 (một) phong bì được niêm phong có đóng dấu của Công an xã Đ1, huyện M1 bên trong có 01 (một) cân điện tử, 04 (bốn) ống thủy tinh, 04 (bốn) ống hút bằng nhựa, 01 (bộ) dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 (một) bình thủy tinh có gắn ống thủy tinh và ống hút nhựa.
- 01 (một) phong bì được niêm phong có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi bên trong có chứa mẫu vật ma túy hoàn trả lại sau giám định.
- 01 (một) phong bì được niêm phong có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi bên trong chứa 02 (hai) điện thoại di động của Trần Quang Đ.
- 01 (một) phong bì được niêm phong có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi bên trong chứa sim điện thoại di động có số sê ri: 8984; 04800; 00460; 80913 sau giám định của Hà Minh T.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2020/HS-ST ngày 18-6-2020, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi:
Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt:
Trần Quang Đ 18 (mười tám) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 14-9-2019.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 22-6-2020, Trần Quang Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; ngày 02-7-2020, Trần Quang Đ kháng cáo bổ sung đề nghị xem xét lại tội danh.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] . Cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt quá nặng, nên ngày 22-6-2020, Trần Quang Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên, ngày 02-7-2020, bị cáo kháng cáo bổ sung đề nghị xem xét lại tội danh. Đơn kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, bị cáo đề nghị xem xét lại tội danh, bị cáo cho rằng chỉ mua ma túy về sử dụng, không bán cho ai, nên bị cáo chỉ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại phần tranh luận, Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm kết án Trần Quang Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là chưa có căn cứ rõ ràng, nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm kết án bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và giảm hình phạt cho bị cáo.
[2] . Xét kháng cáo của bị cáo:
[2.1]. Về tội danh:
Sau khi khởi tố vụ án và khởi tố bị can, Trần Quang Đ thay đổi lời khai, chỉ thừa nhận hành vi của mình là “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Luật sư bào chữa của bị cáo cũng cho rằng lời khai của những người làm chứng là chưa rõ ràng, do đó Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là chưa có căn cứ vững chắc. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M1 và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi (các bút lục số 115, 116,119-124, 127-128,132, 171-175), Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy đã phù hợp với lời khai của những người làm chứng là những đối tượng mua ma túy của bị cáo nhu Hà Minh T (An) (các bút lục số 133, 134, 145,146, 153,154, 157), Nguyễn Đức N2 (các bút lục số 125,126,155,156), Nguyễn Quốc Tr (các bút lục số 129,130, 147, 148), Nguyễn Tấn T3 (bút lục số 149, 150) và phù hợp với Biên bản nhận dạng (bút lục số 210 - 212), Biên bản đối chất (bút lục số 167-170), Kết luận giám định (bút lục số 77-84 và 88). Như vậy, đã có đủ cơ sở để xác định:
- Hành vi mua ma túy: Trần Quang Đ là đối tượng nghiện ma túy, trong thời gian sử dụng ma túy đá, Đ thấy có nhiều người sử dụng ma túy đá, nên nảy sinh ý định mua ma túy đá về để phân ra bán thu lợi nhuận, vừa lấy tiền tiêu xài cá nhân và vừa có ma túy đá để sử dụng. Để thực hiện hành vi này, Trần Quang Đ đã mua ma túy đá của bà Me (không rõ nhân thân, lai lịch) ở đường Quang Trung, thành phố Quảng Ngãi 04 (bốn) lần: Lần 1 mua 2.000.000 đồng; lần 2 mua 1.500.000 đồng; lần 3 mua 4.000.000 đồng và lần 4 mua 4.000.000 đồng.
- Hành vi bán ma túy: Từ tháng 5-2019 đến ngày 12-9-2019, Trần Quang Đ đã 04 lần bán ma túy cho Trần Minh T (An) với giá 1.600.000 đồng; 03 lần bán ma túy cho Nguyễn Quốc Tr với giá 1.200.000 đồng; 02 lần bán ma túy cho Nguyễn Tấn T3 800.000 đồng; 01 lần bán cho Mập ở N1 (không biết tên, địa chỉ cụ thể) 02 túi 700.000 đồng và một số người khác mà Đ biết mặt (không biết tên).
Ngoài ra, trong thời gian khoảng đầu tháng 9-2019, Trần Quang Đ mua 01 gói ma túy đá giúp cho một người bạn tên T7 (không rõ nhân thân, lai lịch), vì bạn hàng của T7 không chịu nhận hàng, với giá 15.000.000 đồng. T7 và Đ thỏa thuận khi nào Đ bán hết sẽ lấy tiền. Sau khi nhận ma túy đá của T7, Đ cất giấu gần tiệm xăm Đ - Tatto. Ngày 12-9-2019, Đ ra thành phố Đà Nẵng để dự sinh nhật bạn, sợ trời mưa nên đem cất giấu tại tiệm xăm Đ - Tatto. Vào lúc 18 giờ 00 phút ngày 13-9-2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M1 tiến hành làm việc với Trần Quang Đ tại tiệm xăm Đ - Tatto (do Đ làm chủ). Quá trình làm việc, Đ khai nhận về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với mục đích vừa sử dụng, vừa bán kiếm lời và tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M1 01 (một) túi nylon lớn, có chứa những hạt tinh thể màu trắng và 20 (hai mươi) túi nylon nhỏ, có chứa những hạt tinh thể màu trắng. Đ khai tất cả là ma túy đá. Cơ quan điều tra Công an huyện M1 tiến hành khám xét khẩn cấp tại tiệm xăm Đ - Tatto của Trần Quang Đ, phát hiện và thu giữ 02 (hai) túi nylon có chứa những hạt tinh thể màu trắng, Đ khai là ma túy đá.
Tại Bản kết luận giám định số 733/KLGĐ-PC09 ngày 16-9-2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận: Tổng khối lượng chất ma túy Methamphetamine là 53,42 gam.
Như vậy, với các hành vi nêu trên Tòa án cấp sơ thẩm kết án Trần Quang Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.2]. Về hình phạt:
Trần Quang Đ đã 04 lần bán ma túy cho Trần Minh T (An) với giá 1.600.000 đồng; 03 lần bán ma túy cho Nguyễn Quốc Tr với giá 1.200.000 đồng; 02 lần bán ma túy cho Nguyễn Tấn T3 với giá 800.000 đồng và 01 lần bán ma túy cho Mập ở N1 (không biết tên, địa chỉ) 02 túi với giá 700.000 đồng, nên thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, Trần Quang Đ quanh co, không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy, do đó bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 18 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo.
Trần Quang Đ là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vừa muốn thu lợi bất chính, vừa muốn có ma túy đá để sử dụng, bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy đá cho các đối tượng nghiện trên địa bàn. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội và gây nhiều dư luận xấu trong nhân dân, nên cần xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc. Bị cáo kháng cáo xin xem xét lại tội danh và xin giảm hình phạt, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không thành khẩn khai báo; đồng thời, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do đó, để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo nói riêng, cũng như ngăn chặn và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[3] . Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
[4] . Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Không chấp nhận kháng cáo của Trần Quang Đ.
- Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2020/HS-ST ngày 18-6-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
2. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt:
Trần Quang Đ 18 (mười tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 14-9-2019.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Về án phí hình sự phúc thẩm:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Trần Quang Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 65/2021/HSPT ngày 15/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 65/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về