Bản án 65/2019/HS-ST ngày 30/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2019/HSST ngày 06 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Như Q, sinh ngày 01-8-1987, tại xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn P, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thọ C và bà Nguyễn Thị D; có vợ là Nguyễn Thị T; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 09/2005/HSST, ngày 01-4-2005 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà xét xử 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và án phí, đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25-6-2019, đến ngày 28-6-2019 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình (có mặt tại phiên tòa).

Những người làm chứng:

1. Ông Trần Văn C, sinh năm 1961 Nơi cư trú: Khu Đ, thị trấn H1, huyện H, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Nguyễn Tuấn P, sinh năm 1996 Nơi cư trú: Khu Đ, thị trấn H1, huyện H, tỉnh Thái Bình.

(Đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ 45 phút ngày 25-6-2019, tại đoạn đường liên thôn thuộc địa phận khu Đ, thị trấn H1, huyện H, tỉnh Thái Bình; Công an huyện H phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Như Q có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Kiểm tra và thu giữ tại túi quần bên phải phía trước Q đang mặc 01 gói giấy tráng kim màu trắng (ký hiệu M1), tại túi quần bên trái phía trước 01 gói giấy màu xanh (ký hiệu M2), kiểm tra bên trong 02 gói giấy đều chứa chất bột màu trắng dạng cục. Q khai nhận đó là ma túy (Hêrôin), Q mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi (không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ) ở khu vực cây xăng gần bệnh viện H1, huyện H, tỉnh Thái Bình với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Công an huyện H, tỉnh Thái Bình đã tiến hành niêm phong 02 gói giấy chứa chất bột màu trắng trên (ký hiệu M1, M2) trước sự chứng kiến của anh Nguyễn Tuấn P và ông Trần Văn C.

Ngoài ra, Công an huyện H, tỉnh Thái Bình còn thu giữ, quản lý của Q 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, biển kiểm soát 17B4 - 34655, 01 điện thoại Iphone 6 đã cũ, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 01 mảnh giấy bạc kích thước 2cm x 4cm.

Tại Bản kết luận giám định số 287/KLGĐ-PC09 ngày 26-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu vật gửi giám định M1 là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1342 gam (Hai phẩy một nghìn ba trăm bốn mươi hai gam). Mẫu vật gửi giám định M2 là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,0603 gam (Không phẩy không nghìn sáu trăm linh ba gam).

Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ

Bản cáo trạng số 68/CT-VKSHH ngày 04-9-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố Nguyễn Như Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Như Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án và nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Như Q như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Như Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Như Q từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 25-6-2019; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Nguyễn Như Q là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong phong bì số 287/KLGĐ-PC09 ngày 26-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra họ đã có lời khai đầy đủ nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Lời khai của bị cáo Nguyễn Như Q tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày 25-6-2019; Bản kết luận giám định số 287/KLGĐ- PC09 ngày 26-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Biên bản ghi lời khai của những người làm chứng: Ông Trần Văn C và anh Nguyễn Tuấn P.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 45 phút ngày 25-6-2019, tại đoạn đường liên thôn thuộc địa phận khu Đ, thị trấn H1, huyện Hưng Hà; Nguyễn Như Q đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1342 gam và 0,0603 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Như Q đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Điều luật quy định như sau:

Điều 249 Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo Nguyễn Như Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo :

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Nguyễn Như Q thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, hủy hoại sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến giống nòi và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác.

Trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Bị cáo có nhân thân xấu. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ về tác hại của ma túy, về việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy nhưng do mắc nghiện ma túy bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội thể hiện sự coi thường pháp luật.

Từ những căn cứ trên cần phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[5] Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về số tiền dùng để mua ma túy và nguồn gốc ma túy, bị cáo Q khai nhận: Số tiền 200.000 đồng là của một người tên là T ở xã C đưa cho bị cáo để mua ma túy về cùng nhau sử dụng. Cơ quan Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành điều tra, xác minh tại thôn C, xã C có một người đàn ông tên là Lê Minh T, sinh năm 1991 nhưng hiện anh T không có mặt tại địa phương, không lấy được lời khai của T nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà đã tách ra tiếp tục điều tra xác minh là đúng quy định của pháp luật. Số ma túy 0,1342 gam và 0,0603 gam Cơ quan điều tra thu giữ ngày 25-6-2019, bị cáo mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi (không biết họ tên, tuổi, địa chỉ) ở khu vực cây xăng thị trấn H với giá 200.000 đồng. Ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu nào khác chứng minh nên không xác định được con người cụ thể đã bán ma túy cho bị cáo nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng của vụ án: Toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình thu giữ, quản lý của bị cáo Nguyễn Như Q, sau khi giám định, số còn lại được niêm phong trong phong bì số 287/KLGĐ-PC09 ngày 26-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cần tịch thu để tiêu huỷ; 01 chiếc xe máy HONDA LEAD biển kiểm soát 17B4-34655, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị T (vợ bị cáo Q), khi bị cáo sử dụng chiếc xe máy trên đi mua ma túy chị T không biết nên cơ quan Công an huyện Hưng Hà đã trả lại chiếc xe máy trên cho chị T là đúng quy định của pháp luật; 01 điện thoại Iphone 6 đã qua sử dụng là tại sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội vì vậy cần tuyên trả lại cho bị cáo; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 01 mảnh giấy bạc kích thước 2cm x 4cm không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Như Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Như Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Như Q 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 25-6-2019.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu huỷ gồm: 0,1140gam (Không phẩy một nghìn một trăm bốn mươi gam) mẫu gửi giám định M1 và toàn bộ bao gói thu của Nguyễn Như Q và 0,0483 gam (Không phẩy không nghìn bốn trăm tám mươi ba gam) mẫu gửi giám định M2 và toàn bộ bao gói thu của Nguyễn Như Q trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 287/KLGĐ, ngày 26-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 01 mảnh giấy bạc kích thước 2cm x 4cm.

Trả lại bị cáo Nguyễn Như Q 01 điện thoại Iphone 6 đã qua sử dụng.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06-9- 2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Như Q phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Như Q có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 30/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;