Bản án 65/2019/HS-ST ngày 01/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 4 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 01/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 73/2019/HSST ngày 27 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Ngọc L; sinh ngày X/1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: 13/24 Đường A, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc S và bà Lê Thị T; tiền án: Không; tiền sự: Không Bắt tạm giam ngày 22/5/2019 “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 22/5/2019, Trần Ngọc L điều khiển xe gắn máy hiệu D biển số XXX đến khu vực đường D, Phường E, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, L gặp và nói với người phụ nữ tên N (không rõ lai lịch) là tìm L1 để mua ma túy rồi đưa trước 200.000 đồng. N cầm tiền rồi đi vào trong nhà. Khoảng 15 phút sau, N quay trở ra và đưa cho L 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy. Trần Ngọc L cầm gói nylon chứa ma túy trong lòng tay trái rồi điểu khiển xe gắn máy về nhà để sử dụng. Khi L đi đến trước nhà số 196 D, Phường E, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Tổ tuần tra Công an Phường E, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra, phát hiện nên tiến hành thu giữ vật chứng rồi đưa về trụ sở Công an Phường E, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số: 1146/KLGĐ-H ngày 31/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1342g (không phẩy một ba bốn hai gam), loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Trần Ngọc L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu.

Đối với người phụ nữ tên N bán ma túy cho L, do không xác định nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 4 không có cơ sở để điều tra xử lý.

Tại bản cáo trạng số 76/CT-VKS ngày 21/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Trần Ngọc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Trần Ngọc L thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu và xin được giảm nhẹ một phần hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 phát biểu và kết luận cáo trạng đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 tuyên bố bị cáo Trần Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và xử phạt Trần Ngọc L từ 01 năm đến 02 năm tù giam; phạt tiền bổ sung đối với bị cáo 5.000.000 đồng. Về xử lý vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi số 1146 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 4, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc L không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các biên bản tự khai, biên bản lấy lời khai bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại Cơ quan điều tra c ng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 22/5/2019, tại trước nhà số 196 D, Phường E, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, Tổ tuần tra Công an Quận 4 bắt quả tang Trần Ngọc L có hành vi cất giấu 0,1342 gam (không phẩy một ba bốn hai gam) ma túy loại Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo Trần Ngọc L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Đây là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn khác, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ hành vi của mình bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo c ng như phòng ngừa chung tội phạm cho xã hội. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc L khai nhận đã hai lần mua ma túy tại khu vực đường D, Phường E, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng. Lần thứ nhất là vào ngày 18/5/2019, L đi cùng với một người thanh niên tên Phương (không rõ lai lịch) mua ma túy của người thanh niên tên L1 (không rõ lai lịch) với giá 300.000 đồng và đã cùng với Phương sử dụng hết số ma túy mua được. Lần thứ hai là vào ngày 22/5/2019 thì bị bắt. Tuy nhiên, do không xác định được nhân thân lai lịch của người thanh niên tên P và L1, đồng thời, ngoài lời khai của bị cáo thì trong hồ sơ vụ án không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh bị cáo phạm tội nhiều lần nên chưa đủ căn cứ để áp dụng tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Trần Ngọc L không có tiền án, không có tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên khi lượng hình cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Ngoài ra, Hội đồng xét xử quyết định phạt tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) đối với bị cáo để sung quỹ nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Thu giữ của Trần Ngọc L 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 1146 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định. Xét, đây là vật cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với xe gắn máy hiệu D biển số XXX, quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu hợp pháp của bà Lê Thị T (là mẹ ruột của L). Do bà T không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của Trần Ngọc L nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 4 đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là bà Lê Thị T nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Trần Ngọc L, 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 5 năm 2019.

Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

- Căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Phạt tiền bị cáo Trần Ngọc L 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

- Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 1146 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định.

(Vật chứng được tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/9/2019 giữa Công an Quận 4 và Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phíBị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

 2. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 01/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 4 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;