Bản án 65/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TRÀ VINH

 BẢN ÁN 65/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 10 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 349/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2019/QĐXX-ST ngày 07 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23/8/2019 giữa:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Yến Ng, sinh năm 1992 (có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: ấp 5A, xã An Tr, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1985 (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp Trì Ph, xã Hòa L, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Nguyên đơn chị Lê Thị Yến Ng có ý kiến: Chị với anh Kh trước khi tiến đến hôn nhân cả hai có tìm hiểu nhau trước được một khoảng thời gian và sau khi được sự đồng ý của cha mẹ hai bên, anh chị tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2010 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 4, thành phố Trà Vinh vào ngày 23/12/2010. Sau ngày cưới chị về sống làm dâu bên chồng. Vợ chồng chị sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai vợ chồng không tin tưởng nhau, nghi ngờ lòng chung thủy của nhau, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi, sống không hạnh phúc và sống ly thân từ tháng 7/2017 cho đến nay. Nay chị Ng nhận thấy không còn tình cảm với anh Kh, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị yêu cầu được ly hôn anh Nguyễn Văn Kh.

Về con chung: Có 01 người con chung là Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 04/10/2012. Hiện chị đang nuôi dưỡng, khi ly hôn chị Ng yêu cầu được tiếp tục nuôi con và yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật cho đến khi cháu Kh tròn đủ 18 tuổi.

Về tài sản, nợ chung: Chị Ng trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Văn Kh đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Hòa giải, Tòa án đã triệu tập hợp lệ hai lần đến tham gia phiên tòa hai lần nhưng anh Kh vẫn không đến theo triệu tập của Tòa án, cũng không gửi văn bản nêu ý kiến của bản thân đối với yêu cầu khởi kiện của chị Ng. Do đó Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn Kh.

* Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đối với việc tuân theo pháp luật tố tụng:

- Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử.

- Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa hôm nay đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý đến thời điểm này nguyên đơn đã thực hiện theo quy định tại các Điều 70, 71, 72 và 73 Bộ luật tố tụng dân sự, đối với bị đơn anh Nguyễn Văn Kh đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến theo triệu tập của Tòa án cũng không gửi văn bản nêu rõ ý kiến là vi phạm Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với việc giải quyết vụ án: Chị Ng và anh Kh vào năm 2010 tự nguyện tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 4, thành phố Trà Vinh, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống chị Ng và anh Kh phát sinh mâu thuẫn, không thể hàn gắng được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Ng xin ly hôn anh Nguyễn Văn Kh.

Về con chung có 01 người con chung là Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 04/10/2012 hiện nay chị Ng đang nuôi dưỡng, từ khi ly thân cho đến nay chị Ng vẫn nuôi dạy cháu Kh tốt, tránh làm thay đổi hoàn cảnh sống của cháu, nếu thay đổi hoàn cảnh sống của cháu có thể làm thay đổi tâm sinh lý của cháu nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 04/10/2012 cho chị Ng tiếp tục nuôi dưỡng, trong quá trình giải quyết vụ án chị Ng có yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con, đây là yêu cầu chính đáng và theo quy định pháp luật người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Ng yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con là cháu Kh từ 1.000.000d- đến 2.000.000đ mỗi tháng cấp dưỡng cho đến khi cháu khỏa tròn 18 tuổi, thời hạn cấp dưỡng tính kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật do chị Ng đại diện nhận. Về tài sản, nợ chung chị Ng khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí đề nghị Hội đồng xét xử buộc chị Ng, anh Kh phải chịu theo quy định pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Nguyên đơn chị Lê Thị Yến Ng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn anh Nguyễn Văn Kh, trú tại ấp Trì Phong, xã Hòa Lợi, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh, chị Ng yêu cầu được con chung là Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 04/10/2012, yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật, về tài sản, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự đây là “tranh chấp về ly hôn, nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.

[2] Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường. Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Lê Thị Yến Ng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt họ, anh Nguyễn Văn Kh thường xuyên đi làm về nhà trễ, Tòa án đã tiến hành niêm yết hợp lệ hai lần nhưng không anh Kh vẫn không có mặt tham dự phiên tòa theo Giấy triệu tập của Tòa án. Nên Tòa án xét xử vắng mặt họ theo quy định tại 207, 208, 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[3] Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Chị Ng và anh Kh sau khi được sự đồng ý của cha mẹ hai bên, anh chị đã tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 4, thành phố Trà Vinh vào năm 2010, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong cuộc sống hôn nhân chị Ng, anh Kh sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là anh chị không tin tưởng nhau, nghi ngờ nhau dẫn đến gia đình mất hạnh phúc, từ năm 2017 cho đến nay anh chị đã sống ly thân. Trong khoảng thời gian hơn hai năm anh Kh, chị Ng đã bỏ mặt nhau, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, do đó chị Ng, anh Kh đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Theo chính quyền địa phương cho biết việc mâu thuẫn giữa vợ chồng anh Kh, chị Ng chính quyền không biết, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Từ những phân tích trên đủ căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lê Thị Yến Ng

Về con chung: Chị Ng và anh Kh có 01 người con chung là Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 04/10/2012. Hiện nay cháu Kh đang sinh sống cùng với chị Ng được đi học và sinh hoạt bình thường, để đảm bảo cho cháu Kh phát triển bình thường, tránh làm sáo trộn đời sống sinh hoạt cháu và theo ý kiến của chính quyền địa phương nên giao cháu Kh cho chị Ng nuôi dưỡng và chị Ng có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Kh. Nên Hội đồng xét xử chấ nhận giao cháu Nguyễn Đăng Kh cho chị Lê Thị Yến Ng tiếp tục nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án chị Ng có yêu cầu anh Nguyễn Văn Kh phải cấp dưỡng nuôi con chung là cháu Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 04/10/2012 cho đến khi cháu Kh tròn 18 tuổi. Đây là yêu cầu chính đáng, theo quy định cha mẹ không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ vào tình hình thực tế để nuôi dưỡng một người con phát triển bình thường như bao đứa trẻ khác phải được đi học, tham gia các lớp ngoại khóa để cháu phát triển về mặt trí tuệ, nuôi dưỡng ăn uống hàng ngày của cháu để đảm bảo cháu phát triển bình thường về thể chất. Nên Hội đồng xét xử quyết định anh Nguyễn Văn Kh phải cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Đăng Kh mỗi tháng 1.500.000đ cho đến khi cháu Kh tròn 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật, do chị Lê Thị Yến Ng đại diện nhận.

Về tài sản, nợ chung: Chị Lê Thị Yến Ng khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét đến.

[4] Đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí sơ thẩm: Chị Lê Thị Yến Ng phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, anh Nguyễn Văn Kh phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng Điều 55, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Yến Ng.

Về hôn nhân: Chị Lê Thị Yến Ng và anh Nguyễn Văn Kh được ly hôn Về con chung: Chị Lê Thị Yến Ng được tiếp tục nuôi con chung là Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 04/10/2012.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Văn Kh phải cấp dưỡng nuôi con chung là cháu Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 04/10/2012 với mức cấp dưỡng 1.500.000đ/tháng kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Nguyễn Đăng Kh tròn đủ 18 tuổi do chị Lê Thị Yến Ng đại diện nhận.

Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung. Vì quyền và lợi ích hợp pháp của chung, khi cần thiết và có yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con, cũng như quyết định phần cấp dưỡng nuôi con Về tài sản chung, nợ chung: Chị Lê Thị Yến Ng khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét đến

2/ Về án phí: Chị Lê Thị Yến Ng phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000đ (ba mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0003296 ngày 03/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành. Chị Ng đã nộp xong án phí. Anh Nguyễn Văn Kh phải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho các đương sự vắng mặt tại phiên toà biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 65/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:65/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;