Bản án 65/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 65/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 44/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2019/QĐXX-ST ngày 09 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 62/2019/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thu H sinh năm 1983; Nơi ĐKHKTT: Thôn 3, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn N, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt);

- Bị đơn: Anh Đào Trọng B, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn 3, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 07 tháng 01 năm 2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Trần Thị Thu H trình bày:

Về hôn nhân: Chị Trần Thị Thu H và anh Đào Trọng B kết hôn với nhau do tự nguyện, được tổ chức lễ cưới theo phong tục, được Ủy ban nhân dân xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thụy cấp Giấy đăng kí kết hôn số 21 ngày 26 tháng 4 năm 2001. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận hạnh phúc đến tháng 7 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do tình cảm không còn, chị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh Đào Trọng B.

Về con chung: Chị Trần Thị Thu H và anh Đào Trọng B có hai con Đào Trọng H sinh năm 2002 và Đào Trọng H1 sinh năm 2007, hiện nay hai con đang ở với anh B. Khi ly hôn, chị H đồng ý để anh B nuôi cả hai con, không yêu cầu giải quyết về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị Trần Thị Thu H và anh Đào Trọng B có nhưng tự phân chia, nếu không xong sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau.

Lời khai trong quá trình xét xử bị đơn Đào Trọng B trình bày: Thng nhất toàn bộ lời trình bày của chị Trần Thị Thu H về thời điểm kết hôn, con chung và tài sản. Quá trình chung sống không xảy ra mâu thuẫn gì lớn, đến tháng 7 năm 2018 do chị H vay nợ riêng nên có nói với anh xin về bên ngoại một thời gian sẽ quay về. Sau đó chị H làm đơn xin ly hôn anh mà anh không biết lý do. Đã nhiều lần anh B và các con trực tiếp gặp gỡ, động viên chị H về đoàn tụ nhưng chị H không nghe. Việc chị H xin ly hôn, anh B mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Trường hợp vợ chồng phải ly hôn, anh nhận trực tiếp nuôi các con; các bên tự giải quyết với nhau về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung để anh và chị H tự phân chia, nếu không xong sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau.

Bà Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án như sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 2 Điều 56, các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị Thu H và anh Đào Trọng B; giao con Đào Trọng H và Đào Trọng H1 cho anh B nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về tố tụng: Chị H đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa hợp lệ nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh B đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; căn cứ Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị H và anh B.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị H và anh B là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến tháng 7 năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, không quan tâm đến nhau. Vậy, xác định yêu cầu xin ly hôn của chị H đã thỏa mãn những căn cứ cho ly hôn quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và Gia đình, cần giải quyết cho ly hôn giữa chị H và anh B.

[3] Về con chung: Các con hiện nay đang do anh B nuôi, chị H đồng ý để anh B nuôi hai con khi ly hôn. Việc anh B có nguyện vọng được nuôi hai con khi vợ chồng phải ly hôn là phù hợp với ý chí của chị H và nguyện vọng của các con; vậy nên giao con Đào Trọng H và Đào Trọng H1 cho anh B nuôi là bảo đảm được lợi ích toàn diện của con theo quy định tại các điều 81 và 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh Đào Trọng B không yêu cầu nên không xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị Trần Thị Thu H và anh Đào Trọng B có nhưng không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Trần Thị Thu H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 92, 147 và 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Thu H và anh Đào Trọng B.

Về nuôi con chung: Giao con Đào Trọng H sinh ngày 10 tháng 6 năm 2002 và Đào Trọng H1 sinh ngày 19 tháng 5 năm 2007 cho anh Đào Trọng B trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Đào Trọng B không yêu cầu nên không xét giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Trần Thị Thu H và anh Đào Trọng B có nhưng không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị Trần Thị Thu H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng biên lai số 0000273 ngày 14 tháng 01 năm 2019. Chị Trần Thị Thu H đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án: Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 65/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:65/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;