Bản án 65/2018/HSST ngày 02/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NP, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 65/2018/HSST NGÀY 02/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên; Tòa án nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2018/TLST-HS, ngày 12 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2018/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vàng Thị D; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh năm 1970, tại huyện N, tỉnh Lai Châu ; Nơi cư trú: Bản C 4, xã C, huyện NP, tỉnh Điện Biên; Dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Không; Nghề nghiệp: Làm nương; Họ tên cha: Vàng Pháng T (Đã chết); Họ tên mẹ: Sùng Thị S (Đã chết); Anh chị em ruột: Có 07 người, bị cáo là con thứ năm trong gia đình; Chồng: Sùng A L (Đã chết); Bị cáo có 07 con, con lớn nhất 27 tuổi, con nhỏ nhất 08 tuổi; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện N, tỉnh Lai Châu, sau đó cùng gia đình chuyển cư về làm ăn sinh sống tại xã S, huyện NP, tỉnh Điện Biên, từ nhỏ không được ăn học ở nhà, đến năm 1987 lấy chồng tại Bản C, huyện NP, tỉnh Điện Biên cho đến nay. Ngày 14/6/2018 bị bắt tạm giữ, sau đó bị tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt.

* Người phiên dịch cho bị cáo: Ông Hồ A Dế - Sinh năm 1984. Địa chỉ: Trung tâm huyện NP, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Vào hồi 09 giờ 20 phút ngày 14/6/2018, tổ công tác Công an huyện NP, tỉnh Điên Biên đang làm nhiệm vụ tại khu vực bản C 4, xã C, huyện NP, tỉnh Điện Biên phát hiện tại một nhà dân có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy, tổ công tác bắt quả tang Vàng Thị D đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ 01 gói nilon mầu trắng bên trong có chứa chất dẻo mầu nâu đen, có mùi hắc nghi nhựa thuốc phiện. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ 01 Bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện.

Dớ khai nhận đó là thuốc phiện. Số thuốc phiện trên Vàng Thị Dớ được một người đàn ông không biết tên, địa chỉ ở đâu tại khu vực bản C 4, xã C, huyện NP, tỉnh Điện Biên cho vào ngày 13/6/2018. Mục đích Vàng Thị D tàng trữ trái phép chất ma túy trên là để sử dụng cho bản thân.

Trong quá trình điều tra bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.

2. Các vấn đề khác:

Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 15/6/2018 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NP xác định: 01 gói vật chứng nghi là nhựa thuốc phiện thu giữ của Vàng Thị D có khối lượng là 2,5g (Hai phẩy năm) gam.

Tại bản kết luận giám định số 599/GĐ-PC54 ngày 26/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất chất dẻo màu nâu đen được trích ra từ vật chứng thu giữ của Vàng Thị D gửi giám định là chất ma túy: Loại Thuốc phiện. Thuốc phiện nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 398, Mục IID, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-Cp ngày 15/5/2018. Khối lượng vật chứng thu giữ của D là 2,5gam.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số 43/CT-VKSNP ngày 11/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NP truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện NP để xét xử bị cáo Vàng Thị D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung 2017). Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Vàng Thị D từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo; miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo do bị cáo thuộc hộ nghèo và là người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; đề nghị HĐXX xử lý vật chứng trong vụ án theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố là đúng, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện NP, tỉnh Điện Biên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; do vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Vào Hồi 09 giờ 20 phút ngày 14/6/2018 tại Bản C 4, xã C, huyện NP, tỉnh Điện Biên, Vàng Thị D đã có hành vi cất giấu trái phép 01 gói nhựa thuốc phiên có khối lượng 2,5 gam trong túi vải đeo bên người. D khai nhận đó là nhựa thuốc phiện của D, mục đích mua để sử dụng cho bản thân. Hành vi đó của Vàng Thị D là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật cần phải xử lý nghiêm. Hành vi nêu trên của Vàng Thị D có đủ các yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Điểm b khoản 1 Điều 249 quy định:

" Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

Do đó kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 Vàng Thị D người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp; Phạm tội vì mục đích sử dụng cho nhu cầu của bản thân. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra. Vì vậy, khẳng định là: Bản cáo trạng số 43/CT-VKSNP ngày 11/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NP truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, nguyên nhân xuất phát từ động cơ, mục đích mua ma túy phục vụ nhu cầu bản thân. Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện N, tỉnh Lai Châu, sau đó cùng gia đình chuyển cư về làm ăn sinh sống tại xã Si Sa Phìn, huyện NP, tỉnh Điện Biên, từ nhỏ không được ăn học ở nhà, đến năm 1987 lấy chồng tại Bản C, huyện NP, tỉnh Điện Biên cho đến nay. Ngày 14/6/2018 bị bắt bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo xuất thân trong gia đình lao động nhưng không chịu lao động, tu dưỡng bản thân mà nghiện ma túy. Bị cáo đã mua ma túy về tàng trữ sử dụng dần cho bản thân. Khi bị bắt bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, tại phiên toà bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Đây cũng là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác.

Vì vậy cần xử lý bị cáo thật nghiêm minh trước pháp luật, bằng biện pháp cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống xã hội đời thường một thời gian để bị cáo có điều kiện cai nghiện, cải tạo bản thân trở thành người có ích cho chính bị cáo và gia đình bị cáo.

[4]. Về hình phạt bổ sung:

Căn cứ vào khoản 5 Điều 249/BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) về hình phạt bổ sung là phạt tiền, HĐXX xét thấy gia đình bị cáo sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn; Gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền; Biên bản xác minh thể hiện gia đình bị cáo không có tài sản gì. Vì vậy, HĐXX quyết định không áp dụng hình phạt này đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng vụ án:

Đối với 1,6 gam Nhựa thuốc phiên là vật chứng còn lại của vụ án (Khối lượng vật chứng thu giữ là 2,5 gam; Đã trích 0,9 gam làm mẫu vật gửi giám định) được niêm phong trong 01(một) phong bì niêm phong của Công an huyện NP; 01 Bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện là vật chứng không có giá trị sử dụng. Vì vậy cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) và Khoản 1; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

[6]. Các vấn đề khác:

Bị cáo khai số thuốc phiên của một người đàn ông vào nhà D xin cơm ăn và đưa ma túy cho bị cáo nhưng không biết tên, địa chỉ của người đó ở đâu nên cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý theo quy định. Viện kiểm sát không truy tố, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về phần án phí: Tại phiên tòa bị cáo đề nghị HĐXX xét miễn án phí HSST cho bị cáo. Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, HĐXX xét thấy bị cáo thuộc hộ nghèo và là người dân tộc thiểu số sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên miễn án phí HSST theo quy định.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 BLTTHS năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Tuyên bố: Bị cáo Vàng Thị D phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy".

[2]. Áp dụng: Điểm b Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Vàng Thị D: 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (14/6/2018).

[3]. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) và Khoản 1; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy 1,6 gam Nhựa thuốc phiên là vật chứng còn lại của vụ án (Khối lượng vật chứng thu giữ là 2,5 gam; Đã trích 0,9gam làm mẫu vật gửi giám định) được niêm phong trong 01(một) phong bì niêm phong của Công an huyện NP; 01 Bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện; (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/9/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện NP, tỉnh Điện Biên).

[4]. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án ngày 30/12/2016, bị cáo Vàng Thị D được miễn án phí HSST theo quy định.

[5]. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 BLTTHS năm 2015, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 02/10/2018./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 65/2018/HSST ngày 02/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;