TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 65/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 27 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 263/2017/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 8 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 143/2017/QĐXXST-DS, ngày 15/9/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 80/2017/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm: 1996; (có mặt) Địa chỉ: Số 44 ấp I, xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
2. Bị đơn: Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1993; (vắng mặt) Đăng ký HKTT: Số 44 ấp I, xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; Tạm trú: Số 58 ấp V, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Tháp.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn Nguyễn Thị Hồng L trình bày: Chị Nguyễn Thị Hồng L và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn với nhau vào tháng 02 năm 2014, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 30/10/2015. Sau khi kết hôn anh Đ về ở rể sống chung gia đình cha mẹ ruột của chị L tại ấp I, xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, khi chị L sinh con thì
mâu thuẫn bắt đầu xảy ra, vợ chồng thường xuyên bất hòa, cãi vã. Chị L và anh Đ đã sống xa nhau khoảng một năm nay, anh Đ đi làm trên thành phố Hồ Chí Minh chỉ gửi tiền về cho chị L được 02 tháng tiền lương về nuôi con, thời gian sau chị L phải tự đi làm kiếm tiền nuôi con anh Đ không gửi tiền về phụ chị L nữa. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị L yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ. Chị L và anh Đ sống chung có 01 con chung tên Nguyễn Thị Hồng V, sinh ngày 08/5/2016 hiện do chị L nuôi dưỡng, chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi con không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng. Về tài sản, nợ chung chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh Đ đảm bảo tuân thủ theo quy định của pháp luật về các điều kiện kết hôn. Anh chị đã thực hiện đúng thủ tục đăng ký và được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên hôn nhân của chị L và anh Đ là hợp pháp được pháp luật công nhận. Nay chị L yêu cầu xin ly hôn với anh Đ và yêu cầu được nuôi con chung nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung khi ly hôn” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Yêu cầu của chị L thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Do anh Đ đang tạm trú tại số 58, ấp V, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Tháp, nên Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Tháp thụ lý và giải quyết vụ án hôn nhân gia đình trên là đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn Đ là bị đơn trong vụ án mặt dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh Đ không trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án đã ra thông báo, triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải 02 lần, tống đạt hợp lệ nhưng anh Đ vẫn không đến tham dự. Sau đó, Tòa án triệu tập anh Đ đến tham gia phiên tòa xét xử, Tòa án đã tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh Đ vẫn vắng mặt tại phiên tòa cả hai lần không có lý do, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử.
[3] Về nội dung vụ án:
Về tình cảm hôn nhân: Chị L và Được kết hôn với nhau và năm 2014, có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2016 thì mâu thuẫn xảy ra. Chị L cho rằng do anh Đ không có trách nhiệm với vợ con, thường xảy ra xung đột, cãi vã, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vợ chồng đã sống ly thân khoảng một năm nay. Nay chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn yêu cầu xin ly hôn với anh Đ. Chị L và anh Đ chung sống có 01 con chung tên Nguyễn Thị Hồng V sinh ngày 08 tháng 5 năm 2016, hiện do chị L trực tiếp nuôi dưỡng từ ngày vợ chồng sống ly thân đến nay, chị L yêu cầu được nuôi con không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Xét thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh Nguyễn Văn Đ đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L là phù hợp theo Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.
Về nuôi con chung: Chị L và anh Đ sống chung có 01 con chung tên
Nguyễn Thị Hồng V sinh ngày 08 tháng 5 năm 2016, hiện do chị L trực tiếp nuôi dưỡng từ ngày vợ chồng sống ly thân đến nay, chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi con tên Vân, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn của chị L Hội đồng xét xử nhận thấy: Con chung của chị L và anh Đ tên Nguyễn Thị Hồng V, sinh ngày 08 tháng 5 năm 2016 dưới 36 tháng tuổi nên Hội đồng xét giao con cho mẹ là chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình. Chị L không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về tài sản, nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Chị L phải chịu án phí sơ thẩm hôn nhân gia đình theo quy định. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Căn cứ vào Điều 147, 227, 228, 235 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Về tình cảm hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng L. Chị Nguyễn Thị Hồng L được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.
- Về nuôi con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thị Hồng V, sinh ngày 08 tháng 5 năm 2016 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Chị L không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.
Chị L cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
- Về tài sản, nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về án phí: Chị L phải nộp 300.000đ tiền án phí sơ thẩm hôn nhân gia đình nhưng được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp ngày 21/8/2017 theo biên lai số 16605 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V, chị L không phải nộp thêm.
Án xử có mặt nguyên đơn, báo cho nguyên đơn biết là có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/9/2017). Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc được niêm yết bản án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 65/2017/HNGĐ-ST ngày 27/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn
Số hiệu: | 65/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về