Bản án 645/2020/HNGĐ-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 645/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 14 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 88/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2020, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 171/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 78/2020/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1988

Địa chỉ: A Tỉnh Lộ B, khu phố C, phường D, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: ông Đỗ Văn D, sinh năm 1986

Thường trú: thôn Phú Đa, xã Hồng Khê, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.

Địa chỉ: A Tỉnh Lộ B, khu phố C, phường D, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Bà H có mặt, ông D vắng mặt). 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày các yêu cầu khởi kiện như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: bà và ông D tiến tới hôn nhân vào năm 2007 và tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hồng Khê, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, có tổ chức kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau này hai bên phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng về mọi mặt, ông D thiếu trách nhiệm với gia đình, ông D chơi game thường xuyên, bà đã cố gắng hàn gắn nhiều lần nhưng không được. Hiện hai bên đã sống ly thân từ giữa tháng 01 năm 2020 đến nay, bản thân bà xác định tình cảm không còn, bà vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn;

- Về con chung: Bà H xác định quá trình sống chung, bà và ông D có 02 người con tên Đỗ Ngọc Ánh, sinh ngày 04/8/2008 và Đỗ Ngọc Minh, sinh ngày 17/02/2013, ly hôn bà H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung, bà tự nguyện không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con;

- Về tài sản chung: bà H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

- Về nợ chung: bà H xác định không có.

* Bị đơn ông Đỗ Văn D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt nên không có lời khai.

* Các tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập: Công văn phúc đáp tình trạng hôn nhân và gia đình số 652/LĐTB ngày 28/4/2020 của phòng Lao động Thương binh và Xã Hội quận Thủ Đức, công văn v/v xác minh tình trạng hôn nhân số 136/VHTT ngày 21/4/2020 của Phòng văn hóa và thông tin thuộc Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức; Kết quả xác minh tình trạng cư trú của ông Đỗ Văn D của Công an phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức và công an xã Hồng Khê, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.

* Các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn giao nộp: Đơn khởi kiện; Bản tự khai; Trích lục kết hôn; Giấy khai sinh (bản sao); Giấy CMND + Hộ khẩu của bà Nguyễn Thị H (bản sao y); Sổ tạm trú (bản sao); Bản tường trình.

* Các tài liệu, chứng cứ do bị đơn cung cấp: Không có.

* Đại diện Viện kiểm sát quận Thủ Đức trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý cho đến khi xét xử, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức đã tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân quận Thủ Đức nhận D:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu “Ly hôn” với ông Đỗ Văn D căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Ông D cư trú tại quận Thủ Đức, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông D nhưng ông D vắng mặt không có lý do do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 38 do Ủy ban nhân dân xã Hồng Khê, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương cấp ngày 12/10/2007 và lời trình bày của bà H về quá trình hôn nhân giữa bà và ông D có cơ sở xác định hôn nhân của ông bà là hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định quá trình chung sống, hai ông bà có phát sinh nhiều mâu thuẫn, mặc dù đã có nhiều cơ hội hàn gắn nhưng không có kết quả. Quá trình tố tụng tại Tòa án, ông D đã được tống đạt văn bản tố tụng nhiều lần nhưng vẫn cố tình vắng mặt không có lý do, thể hiện ý thức không muốn giữ gìn hạnh phúc gia đình, như vậy mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu của bà H về việc xin ly hôn là có căn cứ để chấp nhận, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H về việc xin ly hôn với Đỗ Văn D.

- Về con chung: Căn cứ Giấy khai sinh số 31 do Ủy ban nhân dân xã Hồng Khê, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương cấp ngày 21/02/2013 và Giấy khai sinh số 98, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã Hồng Khê, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương cấp ngày 11/8/2008 và lời trình bày của bà H có cơ sở xác định quá trình sống chung của bà H và ông D có 02 người con tên Đỗ Ngọc Ánh, sinh ngày 04/8/2008 và Đỗ Ngọc Minh, sinh ngày 17/02/2013.

Xét yêu cầu được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con của bà H, Hội đồng xét xử nhận thấy quá trình tố tụng tại Tòa án ông D không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án nên không có ý kiến trình bày đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và tại phiên tòa xét xử ông D cũng không có mặt mặc dù đã được tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ và đồng thời cân nhắc đến điều kiện nuôi con của bà H nên yêu cầu của bà H được tiếp tục nuôi 02 con chung là có cơ sở, ghi nhận việc bà H tự nguyện không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con nên có cơ sở để Hội đồng xét xử quyết định giao 02 con chung cho bà H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của bà H về việc không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi các con chung.

- Về tài sản chung: Bà H xác định không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử ghi nhận;

- Về nợ chung: Bà H xác định không có nên Hội đồng xét xử ghi nhận;

- Về án phí: Bà H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 235, Điều 271, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 51, 55, 56, 57, 58, 71, 72, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Luật Phí và lệ phí;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp và quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

-/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H về việc “Tranh chấp ly hôn” với ông Đỗ Văn D.

- Về quan hệ hôn nhân: bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Đỗ Văn D;

- Về con chung: Giao 02 người con chung tên Đỗ Ngọc Ánh, sinh ngày 04/8/2008 và Đỗ Ngọc Minh, sinh ngày 17/02/2013 cho bà Nguyễn Thị H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị H về việc không yêu cầu ông Đỗ Văn D cấp dưỡng nuôi các con chung.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh H xấu đến việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi khi có lý do chính đáng;

- Về tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

- Về nợ chung: không có.

2-/ Về án phí: bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, nhưng được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai số AA/2019/0056629 ngày 11/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh lập.

3-/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 645/2020/HNGĐ-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:645/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;