Bản án 643/2020/HSST ngày 25/11/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 643/2020/HSST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố B mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 648/2020/HSST ngày 06 tháng 11 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 660/2020/QĐXXST-HS ngày 10/11/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn M, Tên gọi khác: Không, Giới tính: Nam; Sinh năm: 1982. Nơi cư trú: 889, khu phố 1, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: lớp 1/12. Nghề nghiệp: Không. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không

Họ tên cha: Trần T - sinh năm 1955 (còn sống).

Họ tên mẹ: Phan Thị T - sinh năm 1953 (đã chết).

Họ tên anh: Trần Văn Th- sinh năm 1975.

Họ tên anh: Trần Văn Th- sinh năm 1977.

Họ tên chị: Trần Thị Ngọc D - sinh năm 1979.

Họ tên em: Trần Thành Nh - sinh năm 1984.

Họ tên em: Trần Minh L - sinh năm 1988

Họ tên em: Trần Văn X- sinh năm 1991

Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ 04 và chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giữ ngày 19/8/2020, chuyển tạm giam theo lệnh số 1076 ngày 25/8/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B. Bị cáo có mặt.

Bị hại: Chị Hồ Thị Kim Ng, sinh năm: 2000.

Địa chỉ: Ấp Phú Quý 2, xã L, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Phạm Thị N, sinh năm: 1973.

Địa chỉ: 842A, tổ 18, khu 4, khu phố 1, phường A,TP. B, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt).

2. Anh Trần Minh L, sinh năm: 1988.

Địa chỉ: 889, ấp 1, phường A, TP.B tỉnh Đồng Nai. (váng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Trần Văn M là người nghiện ma túy và không có nghề nghiệp. Để có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng, M đi đến khu vực hẻm số 99, khu phố 1, phường L, thành phố B để tìm xem ai có tài sản sẽ tìm cách chiếm đoạt. Khoảng 14 giờ ngày 15/8/2020, khi đang ngồi trước 01 căn nhà trong hẻm số 99 thì M phát hiện chị Hồ Thị Kim Ng, ngụ tại ấp Phú Quý 2, xã L, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai đang đứng nghe điện thoại gần đó nên M đi đến gần chị Ng rồi dùng tay phải giật chiếc điện thoại di động hiệu OPPO A3S trên tay chị Ng và bỏ chạy thoát. Sau khi mở ốp lưng điện thoại ra thì M phát hiện bên trong ốp có 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 thẻ tín dụng Viettel Pay mang tên Hồ Thị Kim Ng nên M đã lấy giấy chứng minh nhân dân và thẻ tín dụng cất vào túi còn chiếc ốp điện thoại thì M vứt bỏ. Sau đó, M đem chiếc điện thoại di động của chị Nguyên đến phòng trọ của em ruột là Trần Minh L tại khu phố B, phường L, thành phố B và bán cho anh L với giá 700.000 đ (Bảy trăm nghìn đồng). Sau khi bán chiếc điện thoại, M đã đi mua ma túy sử dụng rồi về nhà tại số 889, khu phố 4, phường A, thành phố B cất giấu giấy chứng minh nhân dân và thẻ tín dụng của chị Nguyên. Đến khoảng 18 giờ ngày 18/8/2020 chị Ng đi qua khu vực khu phố 3, phường L thì phát hiện M đang đi bộ trên đường nên chị Ng đã truy hô và cùng người dân xung quanh bắt giữ M giao cho Công an phường L, lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B để điều tra, xử lý.

Vật chứng của vụ án:

- 01 chứng minh nhân dân và 01 thẻ tín dụng Viettel Pay mang tên Hồ Thị Kim Ng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu giữ và trả lại cho chị Hồ Thị Kim Ng.

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A3S sau khi mua của Trần Văn M thì anh Trần Minh L đã bán lại cho chị Phạm Thị N là chủ cửa tiệm mua bán điện thoại di động tại địa chỉ số 85, tổ 5, khu phố B, phường L, thành phố B. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu hồi và trả lại cho chị Hồ Thị Kim N.

Tại bản kết luận định giá số 375/KL-HĐĐGTS ngày 21/8/2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố B kết luận: “01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo A3S trị giá 1.314.000đ (Một triệu ba trăm mười bốn nghìn đồng)

Về trách nhiệm dân sự: Chị Hồ Thị Kim Ng và chị Phạm Thị N không yêu cầu bồi thường.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Bản cáo trạng số 648/CT-VKSBH ngày 03/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B đã truy tố bị cáo Trần Văn M, về tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã thể hiện, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 171; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Văn M với mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về việc truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Trần Văn M khai nhận:

Khoảng 14 giờ ngày 15/8/2020, bị cáo đã thực hiện hành vi cướp giật của chị Hồ Thị Kim Nguyên 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A3S, tại hẻm số 99, khu phố 1, phường L, thành phố B.

Theo kết luận định giá trị chiếc điện thoại là 1.314.000đ (Một triệu ba trăm mười bốn nghìn đồng), bị cáo đồng ý với kết luận định giá.

Đối chiếu lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác thể hiện tại hồ sơ vụ án, từ đó đã có đủ căn cứ để xác định hành vi phạm tội của bị cáo. Qua xem xét nhân và hành vi của bị cáo xét thấy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Trần Văn M về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự là đúng căn cứ pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản và sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Vì vậy cần phải có một mức án nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại nên xem xét giảm nhẹ một phần về mức hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[4] Về xử lý vật chứng.

- 01 chứng minh nhân dân và 01 thẻ tín dụng Viettel Pay mang tên Hồ Thị Kim Ng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu giữ và trả lại cho chị Hồ Thị Kim Ng là phù hợp.

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A3S sau khi mua của Trần Văn M thì anh Trần Minh L đã bán lại cho chị Phạm Thị N là chủ của tiệm mua bán điện thoại di động tại địa chỉ số 85, tổ 5, khu phố B, phường L, thành phố B. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu hồi và trả lại cho chị Hồ Thị Kim Ng là phù hợp.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Chị Hồ Thị Kim Ng và chị Phạm Thị N không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét.

[6] Án phí. Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

Đối với anh Trần Minh Lý và chị Phạm Thị N đã mua lại chiếc điện thoại hiệu Oppo A3S nhưng không biết là tài sản do Trần Văn M phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xử lý hình sự nên không đặt ra xem xét.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn M phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Văn M 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/8/2020.

Án phí Hình sự sơ thẩm:

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 643/2020/HSST ngày 25/11/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:643/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;