Bản án 64/2021/HS-ST ngày 11/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 64/2021/HS-ST NGÀY 11/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 11 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 57/2021/HSST ngày 06/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2021/QĐXXST- HS, ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1973; nơi cư trú: thôn K, xã V, huyện V, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hoá: 02/12; con ông Đoàn Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; vợ là Nguyễn Thị N bị cáo có 01 con, sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt tại phiên toà) Nhân thân: Bản án số 32/2014/HSST ngày 21/5/2014 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang xử phạt 03 tháng tù nhưng được hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Đánh bạc”, đã chấp hành xong bản án.

* Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1984 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn M, xã H, huyện V, tỉnh B

* Người chứng kiến: Ông Đoàn Thanh T, sinh năm 1960 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn K, xã V, huyện V, tỉnh B

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ ngày 18/12/2020, tại Cây xăng Xuân Luận thuộc địa phận thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh B. Tổ công các Công an huyện Hiệp Hòa phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Thị Xđang có hành vi tàng trữ trái phép 0.402 gam chất ma túy Methamphetamine với mục đích sử dụng. Tại Cơ quan điều tra Xuân khai nhận số ma túy trên mua tại nhà của Nguyễn Văn Đ.

Căn cứ lời khai của Nguyễn Thị Xuân, ngày 19/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở Nguyễn Văn Đ. Kết quả thu giữ trong két sắt trong phòng ngủ tầng 2 của Nguyễn Văn Đ gồm:

- 03 đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu. Trong đó, 02 đoạn ống nhựa màu trắng có kẻ sọc màu trắng bên trong mỗi đoạn ống nhựa đều chứa tinh thể màu trắng; 01 đoạn ống nhựa màu hồng bên trông có 02 viên nén màu xanh, một mặt có chữ A và một mặt có chữ Y1. Tất cả số ma túy trên được niêm phong trong 01 phong bì thư có ký hiệu “KX1”.

- 01 hộp nhựa có nắp loại hộp thực thẩm bổ sung bên trong có: 02 đoạn ống nhựa màu trắng, có kẻ sọc màu trắng đều được hàn kín hai đầu bên trong mỗi đoạn ống nhựa đều chứa một viên nén màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên đều có chữ “WY”; 01 đoạn ống nhựa màu hồng được hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi ni lon màu trắng được hàn kín bên trong có 06 đoạn ống nhựa màu trắng có kẻ sọc màu trắng đều được hàn kín hai đầu, trong đó: 02 đoạn đều chứa mỗi đoạn một viên nén màu xanh, một mặt viên nén có chữ “A” và một mặt viên nén có chữ “Y1”; 01 đoạn chứa các mảnh vỡ màu hồng đỏ và một viên nén màu xanh, trên một mặt của viên nén có chữ “WY”; 01 đoạn chứa một viên nén màu hồng đỏ, trên một mặt của viên nén có chữ “WY”; 01 đoạn chứa chứa mảnh vỡ của viên nén màu xanh; 01 đoạn chứa mảnh vỡ màu xanh và tinh thể màu trắng. Tất cả số ma túy trên đều được niêm phong trong 01 phong bì thư có ký hiệu “KX2”.

Quá trình khám xét Nguyễn Văn Đ tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, mặt sau màu hồng được niêm phong trong 01 phong bì thư theo quy định.

Tại kết luận giám định số 2008/KL-KTHS ngày 24/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Chất được niêm phong trong phong bì ký hiệu “KX1” và “KX2” là chất ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng là 1,054 gam.

Nguồn gốc số ma túy: Nguyễn Văn Đ khai nhận số ma túy bị thu giữ khi khám xét khẩn cấp là do bị cáo mua của đối tượng tên D ở thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh vào hồi 10 giờ ngày 12/12/2020. Số ma túy mua được bị cáo đã cất vào két sắt tại phòng ngủ tầng hai, mục đích để sử dụng dần. Bị cáo khẳng định không bán ma túy cho Nguyễn Thị Xuân.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số 65/CT-VKS ngày 06/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình giống như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V luận tội đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 135; 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử phạt Nguyễn Văn Đ từ 14 đến 17 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 19/4/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị trả lại bị cáo 01 điện thoại Iphone nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Tịch thu tiêu hủy số ma túy và 01 hộp nhựa thu của bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí.

Bị cáo đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi phạm tội, số ma túy bị thu giữ. Có đủ căn cứ xác định: Hồi 14 giờ 30 phút ngày 19/12/2020, Cơ quan điều tra đã thu giữ 1,054 gam Methamphetamine cất giấu trong két sắt trong phòng ngủ của Nguyễn Văn Đ tại thôn K, xã V, huyện V, tỉnh B. Bị cáo thừa nhận tàng trữ ma túy để sử dụng. Khi thực hiện hành vi, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn Đ đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố bị cáo là đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo. Cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Về hình phạt: Đề xuất của đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng hình phạt tù giam từ 14 đến 17 tháng đối với bị cáo là phù hợp.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản để đảm bảo thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng: Điện thoại thu giữ của bị cáo không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

01 hộp nhựa là công cụ phạm tội cần tịch thu tiêu hủy. Số ma túy thu giữ được là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí, được quyền kháng cáo theo quy định.

Đối tượng tên Duy: không có căn cứ xác định D bán ma tuý cho Đ, cũng không xác định được họ tên, năm sinh, địa chỉ của D nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý D là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 14 (mười bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 19/12/2020.

Xử lý vật chứng: Trả lại bị cáo Nguyễn Văn Đ 01 điện thoại Iphone màu hồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu KX1 và KX2 và 01 hộp nhựa có nắp loại hộp thực thẩm bổ sung.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luât thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2021/HS-ST ngày 11/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;