Bản án 64/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 64/2020/HS-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2020/TLHS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2020/HSST-QĐ ngày 05 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Thị L, sinh năm 1999 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT: Thôn HS, xã TS, huyện KB, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Tổ 1, thị trấn Q, huyện KB, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đức T và bà Trịnh Thị H; có chồng là: Phạm Văn H, sinh năm 1994; con: có 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh ngày 14/3/2017; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam: Không; bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên về hành vi “Cướp giật tài sản”; có mặt.

* Bị hại:

- Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 2001; trú tại: Thôn L, xã LP, huyện VB, tỉnh Lào Cai; có mặt.

- Anh Nguyễn Thành Q, sinh năm 2001; trú tại: Số nhà 5, tổ 2, phường LKT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Anh Ngô Minh T1, sinh năm 1997; trú tại: số nhà 131, tổ 4, phường QT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Chị Hoàng Anh N, sinh năm 2001; trú tại: Thôn 3, xã DQ, huyện VB, tỉnh Lào Cai; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lê Xuân Đ, sinh năm 1996; trú tại: Thôn 2, xã NT, huyện KB, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 11/2019, Lê Thị L và chị Nguyễn Thị T quen nhau qua mạng xã hội Facebook, biết L đang tìm việc làm nên chị T liên hệ xin cho L làm việc tại quán lẩu nướng Minh Thành ở thôn 1, xã PV, thành phố PL. Khoảng 18 giờ ngày 11/11/2019, L đi xe buýt từ nhà đến cổng trường Đại học Công nghiệp Hà Nam và hẹn T ra đón. Khi về phòng trọ, L giới thiệu với mọi người trong phòng trọ bản thân tên là Trang, nhà ở Hưng Yên, đã có chồng nhưng đã ly hôn và có con nhỏ 02 tuổi. Sau đó L ở lại phòng trọ cùng chị T, còn anh Ngô Minh T1, chị Hoàng Anh N, anh Nguyễn Thành Q đi làm. Khoảng 23 giờ thì chị N, anh Q, anh T1 đi làm về, T tháo 02 chiếc nhẫn bạc, 01 chiếc kiềng đeo cổ bằng bạc để trên chiếc bàn học sinh được kê phía trên đầu giường, L hỏi T mượn hai chiếc nhẫn và đeo vào ngón tay. Sau đó mọi người mở nhạc trong điện thoại nghe và đi ngủ. Đến khoảng 09 giờ ngày 12/11/2019, L tỉnh dậy thấy mọi người đang ngủ nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. L lấy chiếc túi đeo chéo màu đen của mình treo trên tường đeo vào người và đi đến chỗ chiếc điện thoại Iphone 6S của N và Iphone 7 của T1 đang sạc pin và bỏ 02 chiếc điện thoại này vào túi. Sau đó L lấy quần áo của mình chồng lên chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung J5 của T và chiếc điện thoại nhãn hiệu Philips màu đỏ của Q cho vào chiếc túi nilon màu đỏ. L nhìn thấy chiếc kiềng đeo cổ bằng bạc của T ở bên dưới gầm chiếc bàn học sinh trên đầu giường nên cầm chiếc kiềng cho tiếp vào chiếc túi nilon đựng quần áo rồi ra về. Khi đi ra cửa phòng trọ L thấy trên giá giầy có 02 mũ bảo hiểm nên cầm lấy đi bộ ra ngã ba đường gần đó bắt xe buýt về nhà tại tổ 1, thị trấn Q, huyện KB, tỉnh Hà Nam. Đến sáng ngày 15/11/2019, L mang chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6S và chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 đến cửa hàng mua bán điện thoại Hà Đông của anh Lê Xuân Đ bán với tổng số tiền 5.400.000đ. Tối ngày 16/11/2019, khi L đi hội chợ tại thành phố Phủ Lý chơi thì bị T, N, Q, T1 phát hiện và đưa đến Công an phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để trình báo sự việc.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu đỏ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 màu vàng; 02 mũ bảo hiểm; 01 túi sách giả da màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen; 01 chiếc kiềng bằng kim loại màu trắng bạc, mặt kiềng có gắn viên đá hình bầu dục màu tím và các viên đá nhỏ không màu, có tổng khối lượng 51,22 gam; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu trắng bạc, đường kính của nhẫn là 02cm, mặt nhẫn được gắn viên đá to và các viên đá nhỏ không màu, có tổng khối lượng 2,32 gam; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu trắng bạc, đường kính của nhẫn là 02cm, mặt nhẫn hình con cá heo và được gắn nhiều đá nhỏ không màu, hai mắt cá heo có gắn 02 viên đá màu xanh, có tổng khối lượng 4,14 gam.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 06/2020 ngày 03/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý, kết luận: “01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu đỏ, đã qua sử dụng giá còn 50.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 màu vàng, đã qua sử dụng giá còn 600.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng, đã qua sử dụng giá còn 2.100.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, đã qua sử dụng giá còn 3.300.000đ; 01 mũ bảo hiểm xe máy màu đen, loại nửa đầu có lưỡi chai, có sọc kẻ caro màu trắng - đen từ trước về sau mũ, đã qua sử dụng giá còn 10.000đ; 01 mũ bảo hiểm xe máy màu trắng, loại nửa đầu có lưỡi chai, có sọc kẻ caro màu trắng - đen từ trước về sau, đã qua sử dụng giá còn 10.000đ; 01 chiếc kiềng bằng kim loại màu trắng bạc, mặt kiềng có gắn viên đá hình bầu dục màu tím và các viên đá nhỏ không màu, có tổng khối lượng 51,22 gam, đã qua sử dụng giá 700.000đ; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu trắng bạc, đường kính của nhẫn là 02cm, mặt nhẫn được gán viên đá to và các viên đá nhỏ không màu, có tổng khối lượng 2,32 gam, đã qua sử dụng giá 100.000đ; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu trắng bạc, đường kính của nhẫn là 02cm, mặt nhẫn hình con cá heo, có gắn 02 (hai) viên đá màu xanh, có tổng khối lượng 4,14 gam, đã qua sử dụng giá 100.000đ” Tổng trị giá tài sản là 6.970.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 52/CT-VKS-PL ngày 23/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Lê Thị L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Thị L từ 6 đến 9 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại và anh Lê Xuân Đ không có yêu cầu về việc bồi thường trách nhiệm dân sự nên đề nghị không xem xét.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 túi xách giả da màu đen; trả lại anh Nguyễn Thành Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu đỏ; trả lại chị Hoàng Anh N01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng; trả lại anh Ngô Minh T1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 và 02 chiếc mũ bảo hiểm loại nửa đầu; trả lại chị Nguyễn Thị T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 màu vàng, 01 chiếc kiềng bằng kim loại màu trắng bạc, 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu trắng bạc và 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu trắng bạc, mặt nhẫn hình con cá heo.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Chị Nguyễn Thị T, anh Nguyễn Thành Q, anh Ngô Minh T1, chị Hoàng Anh N đều có quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho xin lại những tài sản mà bị cáo Lê Thị L đã chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo bồi thường trách nhiệm dân sự. Ngoài ra anh Ngô Minh T1, chị Hoàng Anh N đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đứng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp biên bản ghi nhận hiện trường, sơ đồ hiện trường, kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Do muốn có tiền tiêu sài cá nhân, khoảng 09 giờ ngày 12/11/2019, tại phòng trọ thuộc thôn 1, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, Lê Thị L lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của các chủ sở hữu đã lén lút trộm cắp: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu đỏ của anh Nguyễn Thành Q; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng của chị Hoàng Anh N; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, 02 mũ bảo hiểm xe máy của anh Ngô Minh T1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 màu vàng, 01 chiếc kiềng bàng kim loại màu trắng bạc, 02 chiếc nhẫn bằng kim loại màu trắng bạc của chị Nguyễn Thị T. Tổng giá trị tài sản Lê Thị L chiếm đoạt của các bị hại là 6.970.000đ.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại phiên tòa bị hại là anh Ngô Minh T1 và chị Hoàng Anh N đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mà còn làm ảnh hưởng rất xấu đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Phủ Lý, gây tâm lý hoang mang, lo lắng và bức xúc trong nhân dân trong việc quản lý tài sản, làm xã hội mất ổn định. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung trong cộng đồng.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có công việc và thu nhập ổn định, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện trả lại anh Lê Xuân Đ số tiền do bán máy điện thoại trộm cắp cho anh Đ. Anh Đ không có yêu cầu gì đối với bị cáo, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản bị cáo chiếm đoạt của người bị hại, tại phiên tòa bị hại đề nghị xin lại tài sản đã bị mất, ngoài ra không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Xử lý vật chứng:

- Đối với 01 túi xách giả da màu đen là công cụ bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu đỏ là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Thành Q nên cần trả lại anh Q;

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng là tài sản hợp pháp của chị Hoàng Anh N nên cần trả lại chị N;

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, 01 mũ bảo hiểm xe máy màu đen và 01 mũ bảo hiểm xe máy màu trắng là tài sản hợp pháp của anh Ngô Minh T1 nên cần trả lại anh T1.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 màu vàng, 01 chiếc kiềng bằng kim loại màu trắng bạc, 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu trắng bạc, đường kính của nhẫn là 02cm, mặt nhẫn được gắn viên đá to và các viên đá nhỏ không màu, có tổng khối lượng 2,32 gam và 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu trắng bạc, đường kính của nhẫn là 02cm, mặt nhẫn hình con cá heo và được gắn nhiều đá nhỏ không màu, hai mắt cá heo có gắn 02 viên đá màu xanh, có tổng khối lượng 4,14 gam, là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị T nên cần trả lại chị T.

[8] Đánh giá tình tiết khác của vụ án: Đối với anh Lê Xuân Đ là chủ cửa hàng điện thoại Hà Đông đã mua chiếc điện thoại Iphone 6S và chiếc điện thoại Iphone 7 của Lê Thị L, khi mua anh Đ không biết 02 chiếc điện thoại này là do L trộm cắp mà có, khi sự việc bị phát hiện anh Đ đã chủ động trình báo và giao nộp cho Cơ quan điều tra nên không xem xét, xử lý anh Đ về hành vi “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là phù hợp pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội.

Căn cứ Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Lê Thị L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] Xử phạt bị cáo Lê Thị L 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

[3] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 túi xách giả da màu đen, có dây đeo, mặt trước có gắn các hạt nhựa màu trắng.

- Trả lại anh Nguyễn Thành Q: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu đỏ, số IMEI1: 860272030756708, số IMEI2: 860272030831709, đã qua sử dụng được niêm phong trong phong bì thư dán kín, tại các mép dán được đóng dấu tròn đỏ của Phòng tài chính kế hoạch UBND TP. Phủ Lý và chữ ký giáp lai của những người tham gia niêm phong.

- Trả lại chị Hoàng Anh N: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng, số EMEI: 35542507072308, đã qua sử dụng được niêm phong trong phong bì thư dán kín, tại các mép dán được đóng dấu tròn đỏ của Phòng tài chính kế hoạch UBND TP. Phủ Lý và chữ ký giáp lai của những người tham gia niêm phong.

- Trả lại anh Ngô Minh T1: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu đen, số EMEI: 355320083797269, đã qua sử dụng được niêm phong trong phong bì thư dán kín, tại các mép dán được đóng dấu tròn đỏ của Phòng tài chính kế hoạch UBND TP. Phủ Lý và chữ ký giáp lai của những người tham gia niêm phong; 01 (một) mũ bảo hiểm xe máy màu đen, loại nửa đầu có lưỡi chai, có sọc kẻ caro màu trắng - đen từ trước về sau mũ, đã qua sử dụng và 01 (một) mũ bảo hiểm xe máy màu trắng, loại nửa đầu có lưỡi chai, có sọc kẻ caro màu trắng - đen từ trước về sau mũ, đã qua sử dụng.

- Trả lại chị Nguyễn Thị T: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 màu vàng, số IMEI1: 355079080899078, số IMEI2: 355080080899076, đã qua sử dụng được niêm phong trong phong bì thư dán kín, tại các mép dán được đóng dấu tròn đỏ của Phòng tài chính kế hoạch UBND TP. Phủ Lý và chữ ký giáp lai của những người tham gia niêm phong; 01 (một) chiếc kiềng bằng kim loại màu trắng bạc, mặt kiềng có gắn viên đá hình bầu dục màu tím và các viên đá nhỏ không màu, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu trắng bạc, đường kính của nhẫn là 02cm, mặt nhẫn được gắn các viên đá nhỏ không màu, đã qua sử dụng và 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu trắng bạc, đường kính của nhẫn là 02cm, mặt nhẫn hình con cá heo và được gắn nhiều đá nhỏ không màu, hai mắt cá heo có gắn 02 viên đá màu xanh, đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 17/4/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý).

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lê Thị L phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Quyền kháng cáo: Bị cáo và bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:64/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;