Bản án 64/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 64/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Huỳnh Văn T; Sinh ngày: 09/9/1977; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 08/01 (hẻm số 8), đường số 14, tổ 4, ấp T, xã TTH, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Huỳnh Văn B và bà: Lâm Thị D; Có vợ: Không và con: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 24/7/2020 (chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ ngày 13/5/2020 đến ngày 24/7/2020 theo Quyết định số: 522/QĐ- CSBL ngày 24/7/2020 của Cơ sở cai nghiện ma túy Bố Lá).

Tiền án: Ngày 28/3/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» (Bản án số: 63/2014/HSST). Bị cáo kháng cáo và ngày 12/6/2014, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử giữ nguyên bản án sơ thẩm (Bản án số: 389/2014/HSPT). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/02/2019 và đã thi hành xong phần án phí ngày 06/8/2014 (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 167/GCN của Trại giam Xuân L và Công văn trả lời xác minh số: 2050/CCTHADS ngày 22/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh). (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Huỳnh Minh T1; Sinh năm: 1980; Trú tại: 08/01 (hẻm số 8), đường số 14, tổ 4, ấp Trung, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ 50 phút ngày 13/5/2020, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 6 trên đường tuần tra phát hiện Huỳnh Văn T điều khiển xe gắn máy biển số 59Y2-0043 chạy đến trước nhà số 295 đường Đặng Nguyên Cẩn, Phường 14, Quận 6 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và đã thu giữ trong cái bóp để ở túi quần phía trước bên phải của T 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng (T khai là Heroine), nên đã giao T cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Huỳnh Văn T khai: Khoảng 10 giờ ngày 13/5/2020, T mượn xe gắn máy biển số 59Y2-0043 của ông Huỳnh Minh T1 (em ruột T) đến phòng khám An Hòa - Số 1051A đường Hồng Bàng, Phường 12, Quận 6 để uống Methadone (do T bị nhiễm HIV). Tại đây, T gặp L (không rõ lai lịch) rủ đi mua Heroine về sử dụng, T đồng ý và lên xe để L chở đến khu vực đường Bùi Viện, Quận 1 gặp một người phụ nữ (không rõ lai lịch) mua mỗi người 01 gói Heroine giá 90.000 đồng. Sau khi mua xong, T cất gói Heroine của T trong cái bóp để ở túi quần phía trước bên phải của T. Sau đó, L chở T quay lại phòng khám An Hòa rồi bỏ đi đâu không rõ. Còn T lấy xe gắn máy biển số 59Y2-0043 chạy về đến trước nhà số 295 đường Đặng Nguyên Cẩn thì bị phát hiện bắt giữ như nêu trên.

Tại Kết luận giám định số: 816/KLGĐ-H ngày 20 tháng 5 năm 2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Bột màu trắng trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Lê Diễn (người chứng kiến), Huỳnh Văn T và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0953g (không phẩy không chín năm ba gam), loại Heroine.

Đối với người tên L và người phụ nữ bán ma túy cho Huỳnh Văn T ở khu vực đường Bùi Viện, Quận 1, hiện Cơ quan điều tra chưa xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 63/CT-VKS-Q6 ngày 08 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn T về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Văn T khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi mua 01 gói Heroine giá 90.000 đồng để sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang tại trước nhà số 295 đường Đặng Nguyên Cẩn, Phường 14, Quận 6 vào lúc 10 giờ 50 phút ngày 13/5/2020 như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Huỳnh Văn T như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Huỳnh Văn T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy», trừ thời gian bị cáo đã chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ ngày 13/5/2020 đến ngày 24/7/2020 theo điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 116 của Luật xử lý vi phạm hành chính.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 gói có chứa Heroine đã được niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 816, có các chữ ký của Giám định viên Bùi Công Danh, Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Lê Diễn (người chứng kiến), Huỳnh Văn T và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6.

Còn các vật chứng khác, Cơ quan điều tra đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lý.

Lời nói sau cùng, bị cáo Huỳnh Văn T nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Huỳnh Văn T tại phiên tòa với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận giám định và lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Huỳnh Văn T đã cất giữ 0,0953 gam ma túy ở thể rắn (loại Heroine) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy khác (bị cáo khai mua số ma túy này để sử dụng). Tuy khối lượng chất ma túy mà bị cáo cất giữ chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 0,1 gam), nhưng bị cáo đã bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy (ngày 28/3/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xử phạt 07 năm tù về tội «Mua bán trái phép chất ma túy». Bị cáo kháng cáo và ngày 12/6/2014, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử giữ nguyên bản án sơ thẩm), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 truy tố bị cáo về tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo Huỳnh Văn T không những đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý, trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Huỳnh Văn T là người đã trưởng thành, bị cáo hoàn toàn nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi cất giữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Huỳnh Văn T là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và các chất ma túy ở thể rắn như Heroine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; là con cháu gia đình có công cách mạng, thuộc diện gia đình chính sách (có cha là ông Huỳnh Văn B được Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất; có bà ngoại là bà Nguyễn Thị K được Chủ tịch nước Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng Danh hiệu «Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng»). Bản thân bị cáo đang bệnh nặng (hội chứng suy giảm miễn dịch - HIV/AIDS), nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát là xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Huỳnh Văn T còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, điều kiện kinh tế còn khó khăn, đang sống phụ thuộc gia đình, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Việc xử lý vật chứng: 01 gói có chứa Heroine đã được niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 816, có các chữ ký của Giám định viên Bùi Công Danh, Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Lê Diễn (người chứng kiến), Huỳnh Văn T và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6, là vật cấm lưu hành, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 148/PNK ngày 17 tháng 8 năm 2020 và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 08 tháng 9 năm 2020 của Công an Quận 6; Quyết định chuyển vật chứng số: 31/QĐ-VKS-Q6 ngày 08 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6) Đối với 01 Chứng minh nhân dân, 01 thẻ điều trị Methadone mang tên Huỳnh Văn T và số tiền 200.000 đồng, Công an Phường 14, Quận 6 đã xử lý trả lại cho bị cáo Huỳnh Văn T. Còn chiếc xe gắn máy biển số 59Y2-0043, qua điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ông Huỳnh Minh T1 (em bị cáo). Ngày 13/5/2020, bị cáo mượn xe của ông T1 đến phòng khám An Hòa uống Methadone, nhưng sau đó lại sử dụng chiếc xe làm phương tiện phạm tội, ông T1 không biết, nên đã xử lý trả lại cho ông T1 (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 13/5/2020 của Công an Phường 14, Quận 6 - BL90), do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[6] Đối với người tên L và người phụ nữ mà bị cáo Huỳnh Văn T khai bán ma túy cho bị cáo ở khu vực đường Bùi Viện, Quận 1, do bị cáo khai không rõ nhân thân lai lịch, nên không có cơ sở điều tra làm rõ, do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7] Bị cáo Huỳnh Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 116 của Luật xử lý vi phạm hành chính.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 24/7/2020, được trừ thời gian bị cáo đã chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ ngày 13/5/2020 đến ngày 24/7/2020 (1,5 ngày chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được tính bằng 01 ngày chấp hành hình phạt tù).

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) gói có chứa Heroine đã được niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 816, có các chữ ký của Giám định viên Bùi Công Danh, Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Lê Diễn (người chứng kiến), Huỳnh Văn T và hình dấu Công an Phường 14, Quận 6.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Huỳnh Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Huỳnh Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;