Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 64/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 31 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 210/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2020/QĐST – HNGĐ ngày 13/7/2020, giữa các đương sự.

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1983; thường trú: Số nhà 12/24 đường T, khu phố Đ, phường D, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1979; thường trú: Số nhà 12/24 đường T, khu phố Đ, phường D, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/3/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị G trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị G và anh Nguyễn Văn V sau thời gian tìm hiểu gần 01 năm thì tự nguyện chung sống từ năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Y, tỉnh T vào ngày 09/3/2009 (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 20/2009). Sau khi kết hôn vợ chồng thuê nhà trọ ở một thời gian đến khoảng năm 20 11 thì mua nhà tại địa chỉ 12/24 đường T, khu phố Đ, phường D, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương sống cho đến nay. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh từ việc anh V sống không chung thủy, ham mê cờ bạc, không quan tâm tới gia đình, vợ con. Thời gian anh V còn làm công nhân thì hàng tháng đều đưa lương cho chị G giữ để chi tiêu trong gia đình. Năm 2016, anh V nghỉ việc, ra làm ăn riêng thì thu nhập của ai người đó giữ, mọi chi phí sinh hoạt trong gia đình hầu như chị G tự lo liệu, thi thoảng anh V mới phụ đóng tiền học cho con. Chị G cũng đã nhiều lần tạo điều kiện cho anh V sửa đổi nhưng anh V vẫn chứng nào tật đó, vì vậy mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Tháng 8 năm 2019, anh V dọn ra ngoài sống riêng, thi thoảng có về thăm con còn vợ chồng đã ly thân cho đến nay. Chị G xác định không còn tình cảm với anh V nên yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Phương L, sinh ngày 15/10/2009 và Nguyễn Phương T, sinh ngày 04/11/2013. Hiện nay cháu L và cháu T đang sống chung với chị G nên khi ly hôn chị G yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Nguyễn Văn V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Nguyễn Thị G không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn V: Quá trình tố tụng, anh V đã được Tòa án thông báo thụ lý, triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 21/5/2020; tham gia phiên tòa vào các ngày 13/7/2020 và ngày 31/7/2020, tuy nhiên anh V vắng mặt không có lý do, không cung cấp chứng cứ và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị G.

- Tại biên bản xác minh của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An tại Hội liên hiệp phụ nữ phường D, thành phố Dĩ An thể hiện: Quá trình anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị G sinh sống tại địa phương chính quyền không nhận được đơn thư hay trình báo gì về việc anh, chị có mâu thuẫn trong gia đình nên chính quyền địa phương không biết được mâu thuẫn giữa vợ chồng anh, chị là gì cũng như công việc, thu nhập hay con cái của anh V, chị G.

- Kết quả xác minh tại Công an phường D thể hiện: Đương sự Nguyễn Văn V, sinh năm 1979 có đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại địa chỉ:

12/24 đường T, khu phố Đ, phường D, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định.

Về việc giải quyết vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân, chị Nguyễn Thị G và anh Nguyễn Văn V có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình tố tụng, anh V không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, không cung cấp lời khai và chứng cứ về quan hệ hôn nhân nên có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng chị G và anh V là trầm trọng, chị G có yêu cầu ly hôn là có căn cứ. Về con chung, chị G có yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay con chung đang chung sống với chị G, tại bản tự khai cháu Nguyễn Thị Phương L cũng có nguyện vọng được ở chung với mẹ. Anh V vắng mặt, không trình bày ý kiến về vấn đề nuôi con nên yêu cầu của chị G về vấn đề nuôi dưỡng con chung là có căn cứ. Chị G không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không tranh chấp, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Tòa án nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Văn V để tham gia phiên tòa vào các ngày 13/7/2020 và ngày 31/7/2020 nhưng anh V vắng mặt không rõ lý do. Ngày 21/5/2020 nguyên đơn chị Nguyễn Thị G nộp đơn từ chối hòa giải và đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án xét xử vắng mặt chị G, anh V.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị G và anh Nguyễn Văn V là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Y, tỉnh T vào ngày 09/3/2009 (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 20/2009) nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Chị G xác định trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2019 nên không thể tiếp tục chung sống được với nhau và yêu cầu được ly hôn. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập anh Nguyễn Văn V đến làm việc nhưng anh V đều vắng mặt không rõ lý do, không đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, anh V cũng không có văn bản nào thể hiện thiện chí đưa ra phương pháp hàn gắn mối quan hệ giữa anh và chị G nên có cơ sở xác định cuộc sống hôn nhân của chị G và anh V phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị Nguyễn Thị G yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn V là phù hợp với quy định của Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị G và anh Nguyễn Văn V có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Phương L, sinh ngày 15/10/2009 và Nguyễn Phương T, sinh ngày 04/11/2013. Hiện nay cháu L và cháu T đang sống chung với chị G nên khi ly hôn chị G yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Anh V vắng mặt, không có ý kiến gì đối với yêu cầu về nuôi con của chị G đồng thời tại bản tự khai ngày 01/5/2020, cháu Nguyễn Thị Phương L cũng có nguyện vọng được ở chung với mẹ. Xét cháu L và cháu T còn nhỏ, các cháu là con gái, từ khi anh V dọn ra ngoài sống riêng đến nay các cháu đều được chị G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và tr em sau khi ly hôn cần giao con chung tên Nguyễn Thị Phương L và Nguyễn Phương T cho chị G trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại đơn khởi kiện ngày 10/3/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, chị Nguyễn Thị G xác định chỉ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Nguyễn Văn V phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét đây là ý chí tự định đoạt của đương sự nên ghi nhận sự tự nguyện của chị G về việc không yêu cầu anh V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Nguyễn Thị G không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[6] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

[7] Về án phí: Chị Nguyễn Thị G phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Điểm a Khoản 5 và Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị G được ly hôn với anh Nguyễn Văn V (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 20/2009 03 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện Y, tỉnh T vào ngày 09/3/2009).

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung tên Nguyễn Thị Phương L, sinh ngày 15/10/2009 và Nguyễn Phương T, sinh ngày 04/11/2013 cho chị Nguyễn Thị G trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị G về việc không yêu cầu anh Nguyễn Văn V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, chị Nguyễn Thị G và anh Nguyễn Văn V đều có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con, không ai được quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Nguyễn Văn V lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị Nguyễn Thị G nuôi con thì chị G có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị G phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai số 0040244 ngày 19/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:64/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;