Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 64/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 225/2020/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Kim A, sinh năm 1972; địa chỉ: Số nhà 179, tổ 4, khu phố Bà Tri, phường TH, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Chí T1, sinh năm 1973; địa chỉ: Số nhà 179, tổ 4, khu phố Bà Tri, phường TH, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 16 tháng 6 năm 2020 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thị Kim A trình bày:

Bà Lê Thị Kim A và ông Lê Chí T1 tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2004. Bà Kim A và ông Chí T1 đăng ký kết hôn tại UBND xã (nay là phường) Khánh Bình, thị xã T, tỉnh Bình Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 103/2004, quyển số 08 ngày 03-09-2004. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, ông T1 không chăm lo làm ăn, thường xuyên ngược đãi, mắng vợ con, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của bà Kim A. Vợ chồng và gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải để vợ chồng tiếp tục chung sống và chăm lo cho con nhưng không có kết quả. Đến khoảng năm 2019, bà Kim A và ông Chí T1 không còn sống chung với nhau, ông T1 đi lên Bình Phước mở tiệm sửa xe, không cho bà Kim A biết địa chỉ nơi ở mới, chỉ thỉnh thoảng về nhà thăm con, yêu cầu bà Kim A đưa tiền cho ông Chí T1 tiêu xài và trả nợ. Bà Kim A cùng con vẫn sinh sống tại nhà ở địa chỉ thường trú số 179, tổ 4, khu phố Bà Tri, phường TH, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Từ khi bà Kim A và ông T1 không còn chung sống cùng nhau, bà Kim A một mình nuôi dưỡng và chăm sóc con chung, ông Chí T1 không cấp dưỡng nuôi con, không làm tròn trách nhiệm của một người chồng, người cha mà ngược lại còn thường xuyên về yêu cầu bà Kim A đưa tiền để ông T1 tiêu xài cá nhân.

Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên bà Kim A khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Chí T1, yêu cầu được trực tiếp nuôi các con chung tên Lê Đặng Minh Quang, sinh ngày 26-4-2004 và Lê Đặng Thảo V, sinh ngày 06-12-2012 và Lê Đặng Thảo Q, sinh ngày 19-4-2014. Theo đơn khởi kiện, bà Kim A yêu cầu ông Chí T1 cấp dưỡng nuôi con là 6.000.000 đồng/tháng/03 con đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, ngày 29-7-2020, bà Kim A có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con chung với bị đơn ông Lê Chí T1.

Bị đơn ông Lê Chí T1 vắng mặt.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân thị xã T thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đảm bảo thời hạn chuẩn bị xét xử. Quá trình thu thập chứng cứ, hòa giải, tiếp cận công khai chứng cứ và tống đạt văn bản tố tụng được Tòa án thực hiện đúng quy định. Tại phiên tòa, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Bà Lê Thị Kim A và ông Lê Chí T1 tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống hôn nhân của bà Kim A và ông Chí T1 đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, bà Kim A và ông Chí T1 đã không còn sống chung với nhau từ năm 2019. Bà Kim A yêu cầu ly hôn ông Chí T1 là có căn cứ. Hiện nay, các con chung tên Lê Đặng Minh Quang, sinh ngày 26-9-2004; Lê Đặng Thảo V, sinh ngày 06-12-2012 và Lê Đặng Thảo Q, sinh ngày 19-6-2014 đang sống cùng với bà Kim A, được chăm sóc, giáo dục tốt và các cháu Lê Đặng Minh Quang, Lê Đặng Thảo V trên 07 tuổi, có bản tự khai nộp cho Tòa án ghi rõ nguyện vọng mong muốn được sống cùng bà Kim A. Do đó, bà Kim A yêu cầu được trực tiếp nuôi các con chung và rút một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con và đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xem xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Xét đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Kim A yêu cầu ly hôn với ông Lê Chí T1 là quan hệ pháp luật tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Lê Chí T1 có địa chỉ trường trú tại số 179, tổ 4, khu phố Bà Tri, phường TH, thị xã T, tỉnh Bình Dương nên căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Bị đơn ông Lê Chí T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về quyền và nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng, quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ và triệu tập ông T1 tham gia phiên hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa nhưng ông T1 vẫn vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án mà không có lý do chính đáng, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Kim A và ông Lê Chí T1 tự nguyện tìm hiểu, chung sống, có đăng ký kết hôn và được UBND xã (nay là phường) Khánh Bình, thị xã T, tỉnh Bình Dương và cấp Giấy chứng nhận kết hôn 103/2004, quyển số 08 ngày 03-9-2004 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên mẫu thuẫn, cãi vã do bất đồng quan điểm sống, ông T1 không lo làm ăn, chăm sóc vợ con, ông T1 thường xuyên mắng bà Kim A, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của bà Kim A. Bà Kim A và ông T1 đã không còn chung sống với nhau từ năm 2019, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc nhau, vợ chồng không thể tự hòa giải, thỏa thuận được, bà Kim A kiên quyết ly hôn với ông Chí T1. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ cho bà Kim A và ông Chí T1 nhưng ông T1 không đến Tòa án thể hiện việc không muốn hòa giải, đoàn tụ với bà Kim A. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Kim A và ông T1 đã trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà Kim A yêu cầu ly hôn với ông T1 là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có ba con chung tên Lê Đặng Minh Quang, sinh ngày 26-9-2004; Lê Đặng Thảo V, sinh ngày 06-12-2012 và Lê Đặng Thảo Q, sinh ngày 19-6-2014 . Hiện tại, các con chung đang sống với bà Kim A, hai con chung Lê Đặng Minh Quang và Lê Đặng Thảo V có bản tự khai ghi rõ nguyện vọng được sống cùng mẹ là bà Kim A, điều kiện chăm sóc, giáo dục của các con chung được đảm bảo. Do đó, bà Kim A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Bà Kim A tự nguyện rút một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu ông Chí T1 cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[6] Về án phí: Bà Lê Thị Kim A phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điều 28, 35, 39, 238, 266, 217, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ: Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện về việc bà Kim A yêu cầu ông Chí T1 cấp dưỡng nuôi ba con chung mỗi tháng là 6.000.000 đồng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Kim A đối với ông Lê Chí T1 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con như sau:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Kim A được ly hôn với ông Lê Chí T1.

2. Về con chung: Giao các con chung tên Lê Đặng Minh Quang, sinh ngày 26-9-2004; Lê Đặng Thảo V, sinh ngày 06-12-2012 và Lê Đặng Thảo Q, sinh ngày 19-6-2014 cho bà Lê Thị Kim A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Ông Lê Chí T1 không cấp dưỡng cho con.

Bà Lê Thị Kim A và ông Lê Chí T1 đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng quyền thăm nom con để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa T1 niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Kim A phải nộp 300.000 đồng, được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số AA/2016/0038174 ngày 24-6-2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:64/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;