Bản án 64/2020/DS-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK SONG, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 64/2020/DS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đăk Song xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 142/2020/TLST-DS ngày 17/4/2020 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2020/QĐXXST–DS, ngày 16 tháng 9 năm 2020; quyết định hoãn phiên tòa số 90/2020/QĐST-DS ngày 22 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phan Minh Ng. Có mặt Địa chỉ: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông.

Bị đơn: Bà Đinh Thị Tuyết M. Vắng mặt Địa chỉ: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Tiến D. (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 02 năm 2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Phan Minh Ng trình bày:

Do chỗ quen biết nên tôi có cho bà Đinh Thị Tuyết M vay tiền nhiều lần, đến ngày 10/5/2019 hai bên tính toán lại thì bà Minh còn nợ tôi số tiền 327.560.000đ, hai bên thống nhất viết lại giấy vay tiền, nội dung bà M có vay của ông Dũng, bà Ng số tiền 327.560.000đ hẹn đến ngày 10/12/2019 (âm lịch) sẽ trả, không thỏa thuận lãi suất.

Đến hạn trả nợ mặc dù tôi đòi nhiều lần nhưng bà M cố tình không trả. Vì vậy tôi khởi kiện yêu cầu bà Minh phải trả cho tôi số tiền nợ gốc 327.560.000đ và tiền lãi theo quy định pháp luật.

Bị đơn bà Đinh Thị Tuyết M trình bày: Do chỗ quen biết với bà Nguyệt nên tôi có vay tiền của bà Ng nhiều lần, cụ thể số tiền từng lần vay tôi không nhớ nhưng tiền gốc chỉ khoảng 120.000.000 đồng, đến ngày 10/5/2019 hai bên chốt nợ tính tiền gốc lãi thì tôi còn nợ bà Nguyệt số tiền 327.560.000đ, hai bên có viết 01 giấy vay tiền, nội dung tôi có vay của ông D, bà Ng số tiền 327.560.000đ hẹn đến ngày 10/12/2019 (âm lịch) sẽ trả, không thỏa thuận lãi suất. Do làm ăn khó khăn nên từ trước đến nay tôi chưa trả được số tiền nào cho bà Ng. Chữ ký trong giấy vay tiền ngày 10/5/2019 đúng là chữ ký của tôi. Số tiền này tôi vay riêng cho bản thân tôi, không liên quan đến chồng tôi và ai khác. Tôi thừa nhận còn nợ bà Ng số tiền như bà Ng khởi kiện, hiện nay do điều kiện khó khăn tôi chưa có tiền trả cho bà Ng, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Tiến D trình bày: Ông là chồng của bà Ng, số tiền 327.560.000 đồng bà Ng cho bà M vay là tài sản chung của vợ chồng ông. Khi vợ ông cho bà M vay tiền thì tôi không chứng kiến và không biết, sau này vợ ông nói tôi mới biết. Ông đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Ng.

Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử đã chấp hành đúng theo quy định của pháp luật; bị đơn chưa chấp hành đúng pháp luật. Hoạt động xét xử tiến hành khách quan và đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đại diện VKSND huyện Đăk Song đề nghị HĐXX tuyên chấp nhận nội dung đơn khởi kiện của bà Phan Minh Ng tuyên buộc bà Đinh Thị Tuyết M phải trả cho bà Ng số tiền 327.560.000đ và lãi suất theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Bà Phan Minh Ng khởi kiện yêu cầu bà Đinh Thị Tuyết M trả số tiền 327.560.000đ và tiền lãi theo quy định của pháp luật nên tranh chấp này được xác định là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn bà Đinh Thị Tuyết M có nơi cư trú tại thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đăk Song, tỉnh Đắk Nông theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về thời hiệu khởi kiện: Do một trong hai bên đương sự không có yêu cầu về áp dụng thời hiệu khởi kiện nên theo quy định tại khoản 2 Điều 184 của BLTTDS nên HĐXX không xem xét vấn đề về thời hiệu khởi kiện.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Phan Minh Ng HĐXX xét thấy: các đương sự đều thừa nhận do chỗ quen biết nên bà M có vay tiền của bà Ng nhiều lần, đến ngày 10/5/2019 hai bên chốt nợ tính tiền gốc lãi thì bà M còn nợ bà Ng số tiền 327.560.000đ, hai bên có viết 01 giấy vay tiền, nội dung tôi có vay của ông D, bà Ng số tiền 327.560.000đ hẹn đến ngày 10/12/2019 (âm lịch) sẽ trả, không thỏa thuận lãi suất. Đến hạn trả nợ mặc dù đã đòi nhiều lần nhưng bà Ng không trả. Như vậy, việc bà M có vay tiền của bà Ng là có thật được các bên thừa nhận. Việc vay tiền giữa hai bên là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc, đáp ứng đủ điều kiện được quy định tại Điều 463 BLDS. Do đó, hợp đồng vay tài sản giữa các bên là hợp pháp. Đến hạn trả nợ ngày 10/12/2019 (âm lịch) bà M không trả nên đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ quy định tại Điều 466 BLDS.

Điều 463 Bộ luật dân sự (BLDS) quy định:

Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Điều 466 Bộ luật dân sự quy định:

1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

[3] Về tiền lãi: Trong giấy vay tiền các bên không thỏa thuận lãi suất, HĐXX căn cứ vào khoản 2 Điều 468 BLDS và khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm để tính tiền lãi, cụ thể như sau:

- Tiền lãi trên nợ gốc từ ngày 10/12/2019 (âm lịch) tương ứng ngày 04/01/2020 (dương lịch) đến ngày xét xử sơ thẩm 29/9/2020 là: 08 tháng 25 ngày x 327.560.000đ x 10%/năm = 24.112.055 đồng.

HĐXX xét thấy yêu cầu khởi kiện của bà Phan Minh Nguyệt yêu cầu bà Đinh Thị Tuyết Minh trả số tiền gốc là 327.560.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 29/9/2020 là 24.112.055 đồng là có căn cứ cần chấp chận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn bà Đinh Thị Tuyết M phải chịu 17.583.602 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Phan Minh Ng số tiền 9.548.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số: 0000445, ngày 17/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.

[6]Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 ; khoản 1, 2, 4 Điều 91; khoản 2 Điều 92; Điều 143 ; Điều 147; Điều 266; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự Áp dụng khoản 1 Điều 351; khoản 2 Điều 357; Điều 463 ; khoản 1, khoản 5 Điều 466; khoản 1, khoản 2 Điều 468 của BLDS năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Minh Ng.

Buộc bà Đinh Thị Tuyết M phải trả cho bà Phan Minh Ng và ông Nguyễn Tiến D số tiền nợ gốc 327.560.000đ, tiền lãi 24.112.055 đồng. Tổng cộng: 351.672.055 đồng (Ba trăm năm mươi mốt triệu sáu trăm bảy mươi hai nghìn không trăm năm mươi lăm đồng).

Kể từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm cho bên được thi hành án một khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Về án phí: Buộc bà Đinh Thị Tuyết M phải chịu 17.583.602 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Phan Minh Ng số tiền 9.548.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số: 0000445, ngày 17/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đưucọ quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2020/DS-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:64/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;