Bản án 64/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 64/2019/HS-ST NGÀY 27/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/2019/HSST ngày 06 tháng 9 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Văn Th, sinh ngày 24/6/1983. Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; bố đẻ: Ông Đặng Văn L (đã chết); mẹ đẻ: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1955; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không.

Nhân thân: Bản án số 441/HSST ngày 15/8/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt Đặng Văn Th 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bản án số 41/2006/HSST ngày 23/02/2006 của Tòa án nhân dân thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt Th 02 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bản án số 94/2009/HSST ngày 22/9/2009 của Tòa án nhân dân thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xử phạt Th 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị tạm giữ từ ngày 06/6/2019, chuyển tạm giam từ ngày 09/6/2019 đến nay.

Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.

 - Người làm chứng:

(Bị cáo có mặt tại phiên toà)

1- Ông Trần Văn Ch, sinh năm 1961

Nơi cư trú: Khu Đ, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thái Bình

2- Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1981

Nơi cư trú: Khu B, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thái Bình

(Ông Ch và anh D đều vắng mặt tại phiên toà)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 07 giờ 30 phút, ngày 06/6/2019 tại đoạn đường thuộc khu Đặng Xá, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà phát hiện bắt quả tang Đặng Văn Th có hành vi cất giấu trong lòng bàn tay trái 01 gói tráng kim màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục. Th khai nhận đó là ma túy Th đứng ở bên ngoài mua qua khe cửa của nhà anh Phạm Văn L, sinh năm 1973 ở khu A, thị trấn H, huyện H với giá 200.000 đồng (Th không nhìn thấy người bán ma túy). Tổ công tác Công an huyện Hưng Hà đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong gói giấy tráng kim bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục trước sự chứng kiến của những người làm chứng. Ngoài ra còn quản lý của Th 01 chiếc xe đạp cào cào màu trắng và 01 điện thoại di động X phone đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe đạp cào cào màu trắng là của chị Đặng Thu H (chị gái bị cáo). Chị H không biết việc Th sử dụng xe đạp để đi mua ma túy nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã trả lại chiếc xe đạp cho chị Đặng Thu H.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Đặng Văn Th, cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai của anh Phạm Văn L và chị Phạm Thị L, sinh năm 1978 là vợ anh L. Kết quả điều tra xác định tại thời điểm Th mua ma túy anh L và chị L đều không có ở nhà. Do không xác định được danh tính cụ thể của đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo nên không có căn cứ để xử lý.

Bản kết luận giám định số 216/KLGĐ-PC09 ngày 06/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Herein (hêrôin) có khối lượng 0,1392 gam.

Bản cáo trạng số 69/CT-VKSHH ngày 04 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã truy tố Đặng Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Văn Th từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/6/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong có chứa chất ma tuý hoàn lại sau giám định; trả lại bị cáo 01 điện thoại di động X phone đã qua sử dụng. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý và có lời nói sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Bị cáo Đặng Văn Th đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy vào hồi 07 giờ 30 phút, ngày 06/6/2019 tại đoạn đường thuộc khu Đặng Xá, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và bị bắt quả tang với khối lượng 0,1392 gam ma túy loại Herein (hêrôin) mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng và được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội. Do đó, bị cáo Đặng Văn Th đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt: Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã từng 03 lần bị Tòa án xét xử về các tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau khi chấp hành xong các hình phạt tù về địa phương, bị cáo vẫn cố ý tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng. Chính vì vậy, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên toà đều cho thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 01 gói tráng kim bên trong có chứa ma túy, sau khi giám định, cơ quan giám định đã hoàn mẫu vật giám định, cần tịch thu để tiêu huỷ là phù hợp với quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động X phone đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của Đặng Văn Th không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Đặng Văn Th 02 (Hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/6/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Tịch thu để tiêu huỷ 0,1090 gam Hêrôin được niêm phong trong 01 phong bì hoàn mẫu vật ghi số 216/KLGĐ-PC09 ngày 06/6/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình.

Trả lại bị cáo Đặng Văn Th 01 chiếc điện thoại di động X phone đã qua sử dụng.

Vật chứng trên đang được chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện và chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày 06/9/2019.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án Bị cáo Đặng Văn Th phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;