Bản án 64/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 64/2019/HS-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 60/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Toàn Văn N, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 23 tháng 01 năm 1990 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N (còn gọi là N1), xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Toàn Quốc C, sinh năm 1962 và con bà Nông Thanh T, sinh năm 1962; có vợ là Vy Thị D sinh năm 1990 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 11/6/2019 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Văn L - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Vy Thị D, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn N (còn gọi là N1), xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Vương K, sinh năm 1987. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm 1982. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Toàn Văn N, sinh ngày 23/01/1990; đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn N (còn gọi là N1), xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghiện chất ma túy từ năm 2012 đến nay.

Khong 05 giờ 30 phút ngày 11/6/2019, Toàn Văn N một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12V1-106.xx đi từ nhà đến thôn C, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn để vác hàng thuê. Vác hàng xong, trên đường về Toàn Văn N gặp L (không biết họ và địa chỉ) khoảng 37 tuổi, quen biết từ trước. L cho Toàn Văn N 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong chứa chất ma túy dạng đá Methamphetamine để sử dụng. Toàn Văn N nhận số ma túy trên cất vào trong túi quần đằng sau bên phải đang mặc sau đó điều khiển xe về nhà. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, Toàn Văn N điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12V1-106.xx đến Trung tâm y tế huyện V, tỉnh Lạng Sơn để uống thuốc Methadone. Sau khi uống thuốc xong, Toàn Văn N gặp Vương K, sinh năm 1987, trú tại thôn K, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Toàn Văn N rủ Vương K đi sử dụng ma túy đá, Vương K đồng ý. Toàn Văn N điều khiển xe mô tô chở Vương K đến căn nhà hoang thuộc thôn N, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn để sử dụng ma túy. Đến nơi, Toàn Văn N lấy túi ni lon chứa ma túy từ trong túi quần ra để xuống nền đất rồi nhặt chai thủy tinh, ống nhựa ở xung quanh để làm dụng cụ sử dụng ma túy thì bị Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Tổ công tác đã tạm giữ của Toàn Văn N gồm:

+ 01 (một) túi ni lon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy, được niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Toàn Văn N”;

+ 01 (một) bộ sử dụng ma túy đá bao gồm 01 (một) chai thủy tinh, nắp bằng nhựa màu cam, ống hút bằng nhựa đã lắp vào chai thủy tinh, 01 (một) mảnh giấy bạc;

+ 01 (một) thẻ điều trị Methadone số 025.002.00xx mang tên Toàn Văn N;

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIR BLADE màu đen đã qua sử dụng, mang biển kiểm soát 12V1-106.xx.

Tại Kết luận giám định số 226/KL-PC09 ngày 13/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất tinh thể màu trắng là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,107 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 05/9/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Toàn Văn N về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Toàn Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Toàn Văn N từ 15 tháng đến 18 tháng tù giam. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, sống phụ thuộc gia đình, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được để trong một phong bì niêm phong và toàn bộ vỏ bao gói; 01 (một) bộ sử dụng ma túy đá bao gồm 01 (một) chai thủy tinh, nắp bằng nhựa màu cam, ống hút bằng nhựa đã lắp vào chai thủy tinh, 01 (một) mảnh giấy bạc; là vật nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Toàn Văn N 01 (một) thẻ điều trị Methadone số 025.002.00xx mang tên Toàn Văn N là giấy tờ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1-106.xx, quá trình điều tra xác định là của chị Vy Thị D (vợ bị cáo), chị Vy Thị D không biết bị cáo sử dụng xe mô tô đi tàng trữ ma túy, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1-106.xx cho chị Vy Thị D là phù hợp với quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng. Về mức hình phạt: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lượng ma túy tàng trữ không lớn chỉ ở mức khởi điểm, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù giam.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Toàn Văn N đều khai nhận hành vi phạm tội, nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn; nhất trí với ý kiến của người bào chữa cho bị cáo. Tại lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình.

Chị Vy Thị D trình bày: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1- 106.xx là xe của chị, Toàn Văn N là chồng của chị, thỉnh thoảng vẫn sử dụng xe để đưa đón con và đi uống thuốc Methadone; chị không biết Toàn Văn N sử dụng xe để đi tàng trữ ma túy; Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1-106.xx; nay chị không có yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Người bào chữa đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/6/2019, tại ngôi nhà hoang thuộc thôn N, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện bắt quả tang Toàn Văn N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng là 0,107 gam (đã trừ bì), với mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Toàn Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để phục vụ cho việc sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; tuy nhiên bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2012 đến nay; bị cáo đang điều trị cai nghiện bằng cách sử dụng thuốc thay thế lại tiếp tục sử dụng ma túy, điều này thể hiện bị cáo thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân.

[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 08/07/2019 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có thu nhập ổn định, sống phụ thuộc gia đình, không có tài sản riêng có giá trị, bản thân nghiện ma túy; vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,092 gam Methamphetamine) được để trong một phong bì thư niêm phong có chữ “QT Toàn Văn N”, trên phong bì có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh T, trợ lý giám định, đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới và toàn bộ các vỏ bao gói; 01 (một) bộ sử dụng ma túy đá bao gồm 01 (một) chai thủy tinh, nắp bằng nhựa màu cam, ống hút bằng nhựa đã lắp vào chai thủy tinh, 01 (một) mảnh giấy bạc; là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Toàn Văn N 01 (một) thẻ điều trị Methadone số 025.002.00xx mang tên Toàn Văn N là giấy tờ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1-106.xx, quá trình điều tra xác định là của chị Vy Thị D (vợ bị cáo), chị Vy Thị D không biết bị cáo sử dụng xe đi tàng trữ ma túy, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1-106.xx cho chị Vy Thị D là phù hợp với quy định của pháp luật.

[10] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn và đề nghị của người bào chữa cho bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Về hình phạt, bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có 01 tình tiết giảm nhẹ, lượng ma túy tàng trữ chỉ ở mức khởi điểm, đề nghị của người bào chữa cho bị cáo là phù hợp, mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị có phần nghiêm khắc đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử xét thấy cần cho bị cáo hưởng mức án thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[12] Đối với người đàn ông tên L đưa ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết họ và địa chỉ. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không làm rõ được, do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.

[13] Đối với Vương K, bản thân nghiện ma túy, nên ngày 11/6/2019 khi Toàn Văn N rủ đi sử dụng ma túy, đã đi cùng. Vương K không biết nguồn gốc cũng như số lượng ma túy Toàn Văn N tàng trữ. Xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã tách hồ sơ chuyển đến Trung tâm y tế huyện V, tỉnh Lạng Sơn đề nghị xử lý theo quy định.

[14] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Toàn Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Toàn Văn N 01 (một) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/6/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy: Khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,092 gam Methamphetamine) được để trong một phong bì thư niêm phong có chữ “QT Toàn Văn N”, trên phong bì có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh T, trợ lý giám định, đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới, toàn bộ các vỏ bao gói; 01 (một) bộ sử dụng ma túy đá gồm 01 (một) chai thủy tinh, nắp bằng nhựa màu cam, ống hút bằng nhựa đã lắp vào chai thủy tinh, 01 (một) mảnh giấy bạc.

Trả lại cho bị cáo Toàn Văn N 01 (một) thẻ điều trị Methadone số 025.002.00xx mang tên Toàn Văn N.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05/9/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Toàn Văn N phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;