TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 64/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Xuân H, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn ĐB, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh VP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Xuân Ch và bà Lê Thị Th; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/10/2019 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19h ngày 14/10/2019, Nguyễn Xuân H, ở thôn ĐB, xã TQ, huyện TĐ, một mình đi bộ ra khu vực chợ xã TQ tìm mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lời, khi đi H mang theo 01 bộ cóng sử dụng ma túy. Tại đây, H hỏi mua được của một người nam giới khoảng 30 tuổi (H không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này) 01 gói ma túy đá với giá 500.000đ. Sau khi mua được ma túy, H tiếp tục đi bộ đến khu vực đập LCh, xã TQ lấy một phần ra sử dụng, phần còn lại H gói vào trong tờ tiền mệnh giá 1000đ rồi giấu trong người có ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Sau khi sử dụng ma túy xong, H đi bộ về thôn NhL, xã TQ. Khi đi đến gần ngã ba thôn NhL (đối diện cây xăng NhL) thì H gặp bạn nghiện mới quen ngoài xã hội tên là Nguyễn Văn t, sinh năm 1998 ở thôn STh, xã ĐĐ, huyện TĐ, T hỏi “anh có đá không để cho em 500.000đ”, ý T hỏi H có ma túy đá không bán cho T 500.000đ. Sẵn có ma túy trong người H nói “có”. Nghe H nói vậy, T lấy số tiền 500.000đ(gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000đ và 01 tờ tiền mện h giá 100.000đ) ra đưa cho H, H cầm tiền rồi lấy gói ma túy ra đưa cho T thì bị Công an huyện TĐ bắt quả tang. Tang vật thu giữ gồm: Thu tại tay phải của T 01 gói ma túy bên ngoài được gói bằng tờ tiền mệnh giá 1000đ, bên trong chứa tinh thể dạng đá màu trắng, T khai đó là gói ma túy vừa mua được của H về để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang, niêm phong ký hiệu M1. Thu giữ ở tay trái của H số tiền 500.000đ, H khai đó là tiền bán ma túy cho T mà có (niêm phong ký hiệu T1).
Tại kết luận giám định số 2165/KLGĐ ngày 18/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine. (Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, TT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ). Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,1368g (không phẩy một ba sáu tám gam, không kể bao bì). Khối lượng Methamphetamine trong 0,1368 gam mẫu gửi giám định là 0,0780g (không phẩy không bảy tám không gam)”.
Quá trình điều tra xác định: Về nguồn gốc ma túy H khai mua được của một người nam giới khoảng 30 tuổi (H không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) ở khu vực thôn ĐB, xã TQ, huyện TĐ, Hướng đã sử dụng một phần, phần còn lại H mang bán cho T để kiếm lời thì bị Công an huyện TĐ phát hiện bắt quả tang. Do H không biết tên, tuổi, địa chỉ của người bán ma túy nên không có cơ sở để xác minh vì vậy không đề cập xử lý trong vụ án.
Đối với đối tượng tự khai tên là Nguyễn Văn T, sinh năm 1998 ở thôn STh, xã ĐĐ, huyện TĐ là người mua ma túy của H để sử dụng, sau khi bị bắt quả tang, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TĐ đã đưa về trụ sở lấy lời khai và tường trình sự việc, lợi dụng sơ hở T đã bỏ trốn. Qua điều tra xác minh tại xã ĐĐ, huyện TĐ không có người nào tên là T có lai lịch như đối tượng tự khai. Do vậy Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tam Đảo tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Về xử lý vật chứng của vụ án: Đối với số mẫu vật ma túy được Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn trả lại sau giám định là 0,0000 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói niêm phong trong cùng một bao gói “Mẫu trả” trong đó có 1.000đ là tiền gói ma túy cần tịch thu sung quỹ nhà nước, còn lại cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với số tiền 500.000đ thu giữ của Nguyễn Xuân H là tiền do H bán ma túy mà có nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.
Đối với dụng cụ H dùng để sử dụng ma túy cơ quan điều tra không thu giữ được nên không đề cập xử lý.
Tại Bản Cáo trạng số: 70/CT-VKSTĐ ngày 11/11/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Nguyễn Xuân H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo: Giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng nêu trên. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, phạt: Nguyễn Xuân H từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 09 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Xuân H hoàn toàn đồng ý với truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo. Về hình phạt bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa Nguyễn Xuân H thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, thể hiện như sau: Khoảng 20 giờ ngày 14/10/2019, tại khu vực ngã ba thôn NhL, xã TQ, Nguyễn Xuân H đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn T, thì bị Công an huyện Tam Đảo bắt quả tang. Tang vật thu giữ gồm: 01 gói ma túy bên ngoài được gói bằng tờ tiền mệnh giá 1.000đ, bên trong chứa tinh thể dạng đá màu trắng, khối lượng là 0,1368g kết luận là ma túy, loạimethamphetamine,khốilượng Methamphetamine trong 0,1368 gam mẫu gửi giám định là 0,0780g và số tiền 500.000đ.
[3] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc; Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang ngày 14/10/2019 cùng vật chứng thu giữ được có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã cấu thành tội „„Mua bán trái phép chất ma túy‟‟. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Cụ thể điều luật quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính coi thường pháp luật, đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi các chất ma tuý và đã góp phần đáng kể để tệ nạn ma tuý ngày càng gia tăng, gây hiểm hoạ cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người và phá hoại hạnh phúc của nhiều gia đình, làm quần chúng nhân dân bất bình và cả xã hội lên án. Do vậy, cần phải xử cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
[5] Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo nhận thấy: Bị cáo tuổi đời còn trẻ, chưa có vợ, con nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện lao động chân chính để có thu nhập hợp pháp cho bản thân. Vì mục đích lợi nhuận do ma túy đem lại bị cáo đã bất chấp pháp luật, lao vào con đường phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy khi lượng hình cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo có thời gian cải tạo trở thành người công dân lương thiện, sống có ích cho gia đình và xã hội. Đồng thời thông qua vụ án này cũng là bài học cho mọi người tham dự phiên tòa thấy được tác hại của ma túy để có biện pháp phòng chống hiệu quả.
[6] Về tình tiết tăng nặng: Không có [7] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[8] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo nghề nghiệp không ổn định nên hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng:
Cần tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy được phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại sau giám định = 0,0000g mẫu trả và bao gói (Riêng đối với số tiền 1.000đ là tiền gói ma túy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước).
- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 500.000đ là tiền Nguyễn Xuân H bán trái phép chất ma túy mà có.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật cần chấp nhận.
[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14/10/2019).
3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy được phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại sau giám định = 0,0000g mẫu trả và bao gói (Riêng đối với số tiền 1.000đ là tiền gói ma túy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước).
- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 500.000đ là tiền Nguyễn Xuân H bán trái phép chất ma túy mà có.
(Các vật chứng trên có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/11/2019).
4. Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc Nguyễn Xuân H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án 64/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 64/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về