Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 29/10/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

                             TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG         

BẢN ÁN 64/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 190/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 91/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thị Mỹ X, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Ấp P, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Huỳnh Văn T, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Số nhà A, tổ A, ấp X, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án chị Thị Mỹ X trình bày như sau:

Chị và anh Huỳnh Văn T cưới nhau vào năm 2010, hôn nhân tự nguyện được gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương và thực hiện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang vào ngày 17/01/2013. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, dẫn đến thường X cự cãi nhau, thậm chí đánh chị làm cho đời sống vợ chồng không hạnh phúc nên chị bỏ về nhà cha mẹ ruột sống, ly thân với chồng từ tháng 02/2019 cho đến nay và nay xin được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị xác định vợ chồng có 02 người con chung là Huỳnh Phúc H, sinh ngày 24/6/2011 và Huỳnh Thị Mỹ H, sinh ngày 22/11/2013 hiện đang sống với chị. Từ khi vợ chồng ly thân, anh T không đến thăm con cũng như trợ cấp về tài chính để nuôi con chung. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Chị X xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn anh Huỳnh Văn T vắng mặt không có lý do, không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu xin ly hôn và nuôi con của chị X.

Ý kiến của cháu Huỳnh Phúc H: Khi cha mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng ở với mẹ cháu là chị Thị Mỹ X.

Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm có: Đơn khởi kiện ngày 23/5/2019 (Bản gốc); giấy chứng nhận kết hôn số 09/2013 ngày 17/01/2013 do Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang cấp (Bản chính); trích lục khai sinh số 461/TLKS-BS ngày 15/8/2016 do Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang cấp (Bản sao); giấy khai sinh số 61/2015 ngày 10/3/2015 (Bản sao); giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của nguyên đơn (Bản công chứng); đơn xin xác nhận nơi cư trú ngày 23/5/2019 (Bản gốc); bản tự khai ngày 10/7/2019 (Bản gốc); biên bản nguyện vọng của con ngày 16/9/2019 (Bản gốc); biên bản ghi nhận kiến ngày 01/7/2019 (Bản gốc) và biên bản xác minh ngày 24/7/2019 (Bản gốc).

Kết quả xác minh từ chính quyền địa phương cho biết: Từ đầu năm 2019 vợ chồng chị X và anh T đi làm ở Đồng Nai thì phát sinh mâu thuẫn và anh chị đã ly thân cho đến nay và chị X bỏ về nhà cha mẹ ruột tại huyện G, tỉnh Kiên Giang để sinh sống.

Tại phiên tòa:

Chị X tiếp tục xin ly hôn với anh T, yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con; anh T vắng mặt nên không có ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa và các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; riêng đối với bị đơn vắng mặt không có lý do đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ý kiến của cháu Hậu, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Thị Mỹ X; ghi nhận sự tự nguyện việc chị X không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con; về tài sản và nợ chung: Không có nên miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Chị X khởi kiện xin ly hôn với anh T và yêu cầu được nuôi dưỡng con chung nên quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn và nuôi con chung”.

[3] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình Tòa án tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho anh T theo quy định của pháp luật nhưng anh vẫn vắn mặt không có lý do. Nguyên đơn chị Thị Mỹ X yêu cầu xét xử vắng mặt bị đơn anh Huỳnh Văn T. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử T nhất quyết định xét xử vắng mặt anh T.

[4] Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Thị Mỹ X đối với anh Huỳnh Văn T. Hội đồng xét xử thấy, hôn nhân giữa anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và được Ủy ban nhân dân xã Đông Yên cấp giấy chứng nhận kết hôn số 09/2013 ngày 17/01/2013 nên xác định hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T vẫn vắng mặt không lý do, cũng không gửi văn bản thể hiện ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện chị X. Qua lời trình bày của chị X cũng như kết quả xác minh từ địa phương cho thấy anh chị cưới nhau năm 2010, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, thậm chí anh T còn dùng bạo lực đối với chị làm cho đời sống vợ chồng không hạnh phúc nên chị bỏ về nhà cha mẹ ruột sống, ly thân với chồng từ tháng 02/2019 cho đến nay.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã mở phiên hòa giải để hòa giải tạo điều kiện cho vợ chồng đoàn tụ nhưng anh T vắng mặt không lý do, không thể hiện thiện ý chí hàn gắn hôn nhân. Hơn nữa, anh chị đã ly thân trong thời gian dài đến nay không ai muốn hàn gắn hôn nhân, do đó có sơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu của chị X cho chị X được ly hôn với anh T. Về con chung: Chị X xác định có 02 người con chung tên Huỳnh Phúc H, sinh ngày 24/6/2011 và Huỳnh Thị Mỹ H, sinh ngày 22/11/2013 hiện đang sống cùng với chị. Cháu H có nguyện vọng được sống với mẹ sau khi cha mẹ ly hôn.

Xét thấy, trong thời gian vợ chồng ly thân anh T không có tới lui thăm con, không hỗ trợ về vật chất để chị X nuôi con chung. Chị X có đủ điều kiện về kinh tế (chị X có công việc và thu nhập ổn định) để đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và hiện nay các cháu được cho đi học và đang phát triển bình thường. Do đó, trong thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử thống nhất tiếp tục giao các cháu H (theo nguyện vọng của cháu H) và cháu H cho chị X tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị X có đủ điều kiện về kinh tế để nuôi con chung, nên ghi nhận sự tự nguyện của chị X về việc không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị X xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ Điều 144 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc chị X là nguyên đơn chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

[6] Xét ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận như nêu ở phần nhận định trên.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, Điều 56 và Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Thị Mỹ X đối với bị đơn anh Huỳnh Văn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Thị Mỹ X và anh Huỳnh Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Huỳnh Phúc H, sinh ngày 24/6/2011 (Theo nguyện vọng của cháu H) và Huỳnh Thị Mỹ H, sinh ngày 22/11/2013 cho chị Thị Mỹ X tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

3. Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Thị Mỹ X về việc không yêu cầu anh Huỳnh Văn T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Thị Mỹ X xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Thị Mỹ X có nghĩa vụ nộp toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001895 ngày 04/6/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện An Biên, vậy chị X đã nộp đủ tiền án phí.

6. Báo quyền kháng cáo: Án xử công khai, có mặt nguyên đơn chị Thị Mỹ X có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 29/10/2019). Bị đơn anh Huỳnh Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 29/10/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:64/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;