Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 64/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2019/QĐXX-ST ngày 09 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2019/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn L, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Tiến T, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn L, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15 tháng 12 năm 2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Vũ Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị Vũ Thị T và anh Vũ Tiến T kết hôn với nhau do tự nguyện, được tổ chức lễ cưới theo phong tục, được Ủy ban nhân dân xã Minh Tân, huyện Thủy Nguyên cấp Giấy đăng kí kết hôn số 01 ngày 04 tháng 01 năm 2010. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, năm 2018 thì sống ly thân cho đến nay; Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, anh T thường xuyên say rượu rồi chửi mắng, xúc phạm chị. Do tình cảm không còn, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh T.

Về con chung: Chị Vũ Thị T và anh Vũ Tiến T có hai con Vũ Thị Phương L sinh năm 2010 và Vũ Minh T sinh năm 2017, hiện nay chị T đang nuôi các con. Khi ly hôn chị T nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi cả hai con; không yêu cầu giải quyết về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Vũ Thị T và anh Vũ Tiến T có nhưng tự phân chia, nếu không xong sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau.

Lời khai trong quá trình xét xử bị đơn Vũ Tiến T trình bày: Thng nhất toàn bộ lời trình bày của chị Vũ Thị T về hôn nhân, con chung và tài sản. Anh T có quan điểm giải quyết vụ án như sau: Mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Trường hợp vợ chồng phải ly hôn, anh để chị T trực tiếp nuôi các con; các bên tự giải quyết với nhau về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung để anh và chị T tự phân chia, nếu không xong sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau.

Ông Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án như sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 51, khoản 2 Điều 56, các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử cho ly hôn giữa chị Vũ Thị T và anh Vũ Tiến T; giao con Vũ Thị Phương L và Vũ Minh T cho chị Vũ Thị T nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; chị Vũ Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Vũ Tiến T đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của BLTTDS, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Vũ Tiến T.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị T và anh T là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, không quan tâm chăm sóc nhau. Vậy, xác định yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị T đã thỏa mãn những căn cứ cho ly hôn quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và Gia đình, cần giải quyết cho ly hôn giữa chị T và anh T.

[3] Về con chung: Các chung hiện nay đang do chị T nuôi. Nguyện vọng được tiếp tục nuôi con của chị T bảo đảm được lợi ích toàn diện và phù hợp với nguyện vọng của cháu Linh; vậy nên giao con Vũ Thị Phương L và Vũ Minh T cho chị Vũ Thị T trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với quy định tại các điều 81 và 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị Vũ Thị T không yêu cầu nên không xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị Vũ Thị T và anh Vũ Tiến T có nhưng tự thỏa thuận tự phân chia, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Vũ Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 92, 147 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị T và anh Vũ Tiến T.

Về nuôi con chung: Giao con Vũ Thị Phương L sinh ngày 22 tháng 10 năm 2010 và Vũ Minh T sinh ngày 18 tháng 3 năm 2017 cho chị Vũ Thị T trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thị T không yêu cầu nên không xét giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Vũ Thị T và anh Vũ Tiến T thỏa thuận tự phân chia, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị Vũ Thị T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng biên lai số 0000241 ngày 08 tháng 01 năm 2019. Chị Vũ Thị T đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án: Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:64/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;