Bản án 64/2019/DS-ST ngày 23/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 64/2019/DS-ST NGÀY 23/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Vào ngày 23 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 262/2019/TLST-DS ngày 23 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2019/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần V; trụ sở: Số 89, phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội; địa chỉ liên lạc: Tầng 2, số 96, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp: Anh Đoàn Công T, sinh năm 1995 hoặc anh Nguyễn Đình A, sinh năm 1997; địa chỉ: Tầng 2, số 96, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, chức vụ: Chuyên viên xử lý nợ, là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 21/6/2019). Anh Đoàn Công T có mặt, anh Nguyễn Đình A vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Khắc V, sinh năm 1987; thường trú: 27/4 khu phố T, phường Đ, thị xã D, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 01/7/2019, lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Ngày 20/02/2016, anh Nguyễn Khắc V có ký Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng số 6522958 với Ngân hàng TMCP V (sau đây gọi tắt là Ngân hàng). Sau đó, Ngân hàng xác nhận chấp thuận cho anh V vay số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng, thời hạn vay 36 tháng, mục đích vay tiêu dùng, lãi suất vay tại thời điểm giải ngân là 32%/năm, được điều chỉnh 03 tháng/lần. Khách hàng trả nợ gốc, lãi cho Ngân hàng định kỳ 01 tháng 01 lần vào ngày 03 tây, kỳ đầu tiên là ngày 03/4/2016, tổng cộng 36 kỳ. Ngoài ra, các nội dung khác liên quan đến khoản vay của khách hàng không được đề cập trong Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng (sau đây gọi tắt là Hợp đồng tín dụng) sẽ được thực hiện theo Điều khoản và điều kiện dành cho khách hàng vay tiêu dùng cá nhân, mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ (gọi tắt là Bản Điều khoản và điều kiện dành cho khách hàng). Tại Bản Điều khoản và điều kiện dành cho khách hàng có quy định lãi suất quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn.

Thực hiện hợp đồng, ngày 03/3/2016 Ngân hàng đã giải ngân cho anh Nguyễn Khắc V đủ số tiền vay 50.000.000 đồng. Tổng tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng giữa anh V và Ngân hàng tính đến ngày 23/10/2019 tại Ngân hàng là 72.339.339 đồng, gồm 13.275.602 đồng lãi trong hạn và 59.063.737 đồng lãi quá hạn. Anh V đã thanh toán cho Ngân hàng tổng cộng 16 lần với tổng số tiền là 61.312.500 đồng, trong đó: Tiền nợ gốc là 14.725.239 đồng và tiền lãi 46.587.261 đồng. Sau đó, anh V không thanh toán tiếp khoản tiền nào dù Ngân hàng đã nhắc nhở. Do anh V vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh Nguyễn Khắc V trả một lần cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và lãi tạm tính đến ngày 23/10/2019 là 61.026.839 đồng, trong đó gồm: Tiền gốc 35.274.761 đồng, tiền lãi 25.752.078 đồng (trong đó lãi trong hạn 10.560.165 đồng, lãi quá hạn 15.191.913 đồng). Ngoài ra anh V còn phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi anh V thanh toán xong các khoản nợ.

- Tại bản tự khai ngày 16/8/2019, biên bản hòa giải ngày 23/8/2019, bị đơn anh Nguyễn Khắc V trình bày:

Thống nhất ngày 20/02/2016 anh có ký Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng với Ngân hàng TMCP V để vay số tiền 50.000.000 đồng như đại diện Ngân hàng trình bày.

Ngày 03/3/2016, anh đã được Ngân hàng giải ngân đủ số tiền vay và chủ động thanh toán cho Ngân hàng được tổng số tiền gốc và lãi là 61.312.500 đồng. Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu anh V thanh toán nợ gốc và lãi như trên thì anh V đồng ý thanh toán theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên hiện nay anh V có hoàn cảnh khó khăn, bị tai nạn chưa có công việc làm ổn định nên anh mong muốn được trả nợ hàng tháng cho Ngân hàng, đồng thời đề nghị Ngân hàng xem xét giảm lãi cho anh do sau khi vay anh đã thanh toán được số tiền khá lớn cho Ngân hàng.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định. Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn anh Nguyễn Khắc V đã được Tòa án triệu tập để tham gia phiên tòa vào các ngày 18/10/2019 và ngày 23/10/2019 nhưng anh V vắng mặt không rõ lý do. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Quá trình tố tụng, anh Nguyễn Khắc V thừa nhận anh có ký kết với Ngân hàng TMCP V Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng như Ngân hàng trình bày, mục đích vay tiêu dùng, lãi suất vay theo thỏa thuận trong hợp đồng. Sau khi ký kết hợp đồng, ngày 03/3/2016 anh đã được Ngân hàng giải ngân đầy đủ số tiền vay là 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng. Sau đó, anh đã thanh toán cho Ngân hàng được tổng số tiền là 61.312.500 (sáu mươi mốt triệu ba trăm mười hai nghìn năm trăm) đồng. Đây là tình tiết không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[3] Xét Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng được anh Nguyễn Khắc V ký xác nhận ngày 20/02/2016 và đại diện hợp pháp của Ngân hàng ký và đóng dấu chấp thuận. Do đó việc giao kết Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng với anh Nguyễn Khắc V trên tinh thần tự nguyện thỏa thuận giữa hai bên. Từ thời điểm ký kết hợp đồng anh V xác nhận cam kết đã đọc, hiểu rõ và đồng ý với tất cả các điều khoản, thông tin trong Hợp đồng. Theo Hợp đồng tín dụng, Ngân hàng xác nhận chấp thuận cho anh V vay số tiền 50.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng, mục đích vay tiêu dùng, lãi suất vay tại thời điểm giải ngân là 32%/năm, lãi suất được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần vào các ngày 01/01, 01/4, 01/7, 01/10 hàng năm. Anh V có trách nhiệm thanh toán 36 kỳ, vào ngày 03 tây mỗi tháng. Kỳ trả nợ gốc đầu tiên là ngày 03/4/2016. Ngoài ra, các nội dung khác liên quan đến khoản vay của khách hàng không được đề cập trong Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng sẽ được thực hiện theo Điều khoản và điều kiện dành cho khách hàng vay tiêu dùng cá nhân, mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ. Tại Điều khoản và điều kiện dành cho khách hàng có quy định lãi suất quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn. Trường hợp anh V vi phạm bất kỳ lịch trả nợ nào thì Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn toàn bộ dư nợ vay còn lại của khách hàng. Ngân hàng có quyền thu hồi nợ theo thứ tự ưu tiên: Các khoản phí, chi phí; phạt chậm trả; tiền bồi thường thiệt hại; tiền lãi quá hạn; tiền lãi đến hạn; nợ gốc đến hạn và các khoản liên quan khác.

Anh Nguyễn Khắc V vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền gốc và lãi từ ngày 01/01/2017, toàn bộ khoản nợ chuyển sang nợ quá hạn từ thời điểm này và phải chịu lãi quá hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng với mức lãi suất bằng 150% lãi suất trong hạn. Tổng tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng giữa anh V và Ngân hàng tính đến ngày 23/10/2019 tại Ngân hàng là 72.339.339 đồng, gồm 13.275.602 đồng lãi trong hạn và 59.063.737 đồng lãi quá hạn. Tổng số tiền anh V đã thanh toán cho Ngân hàng là 61.312.500 đồng, cụ thể: Ngày 05/4/2016 trả 2.200.000 đồng, trong đó tiền gốc 814.203 đồng và tiền lãi 1.385.797 đồng; ngày 10/5/2016 trả 2.210.000 đồng, trong đó tiền gốc 880.360 đồng và tiền lãi 1.329.640 đồng; ngày 16/5/2017 trả 22.000.000 đồng, trong đó tiền gốc 1.511.077 đồng và tiền lãi 20.488.923 đồng; ngày 14/6/2017 trả 2.300.500 đồng, trong đó tiền gốc 838.568 đồng và tiền lãi 1.461.932 đồng; ngày 04/7/2017 trả 2.300.500 đồng, trong đó tiền gốc 1.055.025 đồng và tiền lãi 1.245.475 đồng; ngày 03/8/2017 trả 2.300.500 đồng, trong đó tiền gốc 1.839.505 đồng và tiền lãi 460.995 đồng; ngày 06/9/2017 trả 2.300.500 đồng tiền lãi; ngày 03/10/2017 trả 2.300.500 đồng, trong đó tiền gốc 1.786.501 đồng và tiền lãi 513.999 đồng; ngày 06/12/2017 trả 1.000.000 đồng tiền lãi; ngày 17/5/2018 trả 2.000.000 đồng tiền lãi; ngày 20/6/2018 trả 5.000.000 đồng tiền lãi; ngày 21/7/2018 trả 25.000.000 đồng tiền lãi; ngày 03/10/2018 trả 2.200.000 đồng tiền lãi; ngày 09/11/2018 trả 2.200.000 đồng tiền lãi; ngày 01/02/2019 trả 4.000.000 đồng tiền gốc; ngày 07/3/2019 trả 2.000.000 đồng tiền gốc. Như vậy tổng số tiền anh V đã thanh toán cho Ngân hàng theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết gồm 14.725.239 đồng nợ gốc, 2.715.437 đồng lãi trong hạn và 43.871.824 đồng lãi quá hạn. Ngoài ra, các bên thống nhất anh V không thanh toán khoản nào khác.

Do anh V không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho nên Ngân hàng TMCP V căn cứ vào Hợp đồng tín dụng, Điều kiện và điều khoản dành cho khách hàng, yêu cầu anh V phải trả số nợ gốc và nợ lãi còn lại tạm tính đến ngày 23/10/2019 là 61.026.839 đồng, trong đó gồm: Tiền gốc 35.274.761 đồng, tiền lãi 25.752.078 đồng (trong đó lãi trong hạn 10.560.165 đồng, lãi quá hạn 15.191.913 đồng) là có căn cứ. Anh Nguyễn Khắc V cũng có thiện chí trả nợ tuy nhiên do hoàn cảnh khó khăn nên không thể thanh toán ngay một lần cho Ngân hàng mà đề nghị được thanh toán dần. Anh Nguyễn Khắc V tiếp tục chịu lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng, Bản Điều kiện và điều khoản dành cho khách hàng cho đến khi thanh toán xong tất cả các khoản nợ.

[3] Từ những phân tích trên, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An.

Việc Ngân hàng yêu cầu anh V phải có trách nhiệm trả một lần đối với toàn bộ số tiền còn nợ, còn anh V yêu cầu Ngân hàng cho anh thời gian trả từ từ vì hoàn cảnh kinh tế của anh đang gặp khó khăn. Xét về phương thức thanh toán các bên không thỏa thuận được với nhau. Vì vậy, Tòa án sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu theo quy định của Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 92, 144, 147, 227, 228, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước V Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần V đối với anh Nguyễn Khắc V về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng.

Buộc anh Nguyễn Khắc V có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V số tiền còn nợ tính đến ngày 23/10/2019 là 61.026.839 (sáu mươi mốt triệu không trăm hai mươi sáu nghìn tám trăm ba mươi chín) đồng, trong đó gồm: Tiền gốc 35.274.761 đồng, tiền lãi 25.752.078 đồng (trong đó lãi trong hạn 10.560.165 đồng, lãi quá hạn 15.191.913 đồng).

Tiền lãi được tiếp tục tính kể từ ngày 24/10/2019 cho đến khi anh Nguyễn Khắc V trả xong các khoản nợ theo mức lãi suất thỏa thuận trong Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng số 6522958 ký kết giữa anh Nguyễn Khắc V với Ngân hàng Thương mại cổ phần V và Điều khoản và điều kiện dành cho khách hàng vay tiêu dùng cá nhân, mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Khắc V phải chịu 3.051.341 (ba triệu không trăm năm mươi mốt nghìn ba trăm bốn mươi mốt) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V 1.379.000 đồng (một triệu ba trăm bảy mươi chín nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0028954 ngày 22/7/2019 của Chi cục thi hành án Dân sự thị xã Dĩ An.

3. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2019/DS-ST ngày 23/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:64/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;