Bản án 639/2020/HS-PT ngày 26/10/2020 về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 639/2020/HS-PT NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Trong ngày 26 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 201/2020/TLPT- HS ngày 22 tháng 6 năm 2020 đối với các bị cáo Đoàn Thị Thu Th, Đỗ Cảnh T, Lê Thị Cẩm T1. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2020/HS-ST ngày 06 tháng 05 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Các bị cáo có kháng cáo:

1/ Đoàn Thị Thu Th, sinh năm 1983 tại tỉnh Tiền Giang; HKTT: 429 Lê Duẩn, Khu phố Tân Hạnh, phường PM, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; chỗ ở: 429 Lê Duẩn, khu phố Tân Hạnh, phường PM, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Kinh doanh – Chủ cơ sở kinh doanh SH; trình độ văn hóa:12/12; Cha: Đoàn Văn Gốc, sinh năm 1946; Mẹ: Phạm Thị Th, sinh năm: 1951; chồng: Nguyễn Duy H, sinh năm 1979; Bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2015.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị bắt ngày 13/8/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cho bảo lãnh tại ngoại ngày 22/8/2019 (Có mặt).

2/ Đỗ Cảnh T (H), sinh năm 1991 tại thành phố Hồ Chí Minh; HKTT:

01/82, khu phố 7, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, Tp Hồ Chí Minh. Chỗ ở:

tổ 2, khu phố Mỹ Tân, phường Mỹ Xuân, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;

nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; Cha: Đỗ Cảnh H, sinh năm: 1968; Mẹ: Võ Thị Ch, sinh năm: 1971; Vợ: Thị Yến O, sinh năm 1999; Bị cáo có 01 người con sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

3/ Lê Thị Cẩm T1, sinh năm 1993 tại tỉnh Nghệ An; HKTT: xóm 6, xã Diễn Trung, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: tổ 4, khu phố Vạn Hạnh, phường PM, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Nhân viên kinh doanh cơ sở SH; trình độ văn hóa: 12/12; Cha: Lê Văn T, sinh năm: 1967; Mẹ: Cao Thị Hồng T, sinh năm: 1973;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị bắt ngày 13/8/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cho bảo lãnh tại ngoại ngày 22/8/2019 (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 13/8/2019, tại cơ sở kinh doanh SH, địa chỉ tại Ngã 3 Cái Mép, phường Tân Phước, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phối hợp với Công an phường Tân Phước, thị xã PM bắt quả tang Đoàn Thị Thu Th là chủ cơ sở kinh doanh SH và Lê Thị Cẩm T1, Huỳnh Ngọc M là nhân viên bán hàng tại cơ sở kinh doanh SH có hành vi làm giả con dấu, giấy khám sức khỏe của Trung tâm y tế thị xã PM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vật chứng thu giữ gồm:

- 02 con dấu hình hộp, mặt dấu hình tròn màu đỏ, khi đóng lên giấy có chữ “SỞ Y TẾ TỈNH BR – VT - TRUNG TÂM Y TẾ THỊ XÃ PM”.

- 20 dấu tên, chức danh của các bác sỹ, kỹ thuật viên thuộc Trung tâm y tế thị xã PM.

- 100 tờ giấy khám sức khỏe nghi giả của Trung tâm y tế thị xã PM.

- 44 thẻ an toàn lao động.

- 01 máy khắc dấu ký hiệu EB829C0239F8CC58.

Tại bản kết luận giám định số 1714/PC09- Đ3 ngày 16/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BR- kết luận 100 tờ giấy khám sức khỏe và 02 con dấu gửi giám định là giả.

Tiến hành khám xét nơi ở của Đoàn Thị Thu Th tại địa chỉ: 429 đường Lê Duẩn, khu phố Tân Hạnh, phường PM, thị xã PM, cơ quan Công an thu giữ thêm 01 con dấu hình hộp, mặt dấu hình tròn màu đỏ, khi đóng lên giấy có chữ “VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG PM - TX PM” và dấu tên của công chứng viên Trần Trung K.

Cùng ngày, Cơ quan An ninh điều tra đã ra Quyết định tạm giữ đối với: Đoàn Thị Thu Th; Lê Thị Cẩm T1; Huỳnh Ngọc M. Theo lời khai của Th, T1, Mai, Cơ quan An ninh điều tra đã tiến hành triệu tập: Đỗ Cảnh T (trước đây là nhân viên của cơ sở kinh doanh SH) và Nguyễn Văn T2 (là người có hành vi mua, làm giấy khám sức khỏe giả để bán lại kiếm lời). Qua làm việc, T và T2 đã thừa nhận hành vi tham gia làm và mua, bán giấy khám sức khỏe giả tại cơ sở SH.

Quá trình điều tra xác định được như sau:

Cơ sở kinh doanh SH do Đoàn Thị Thu Th làm chủ được thành lập vào tháng 03/2006, chuyên kinh doanh sách báo, văn phòng phẩm, tạp hóa, dịch vụ in ấn, photocopy...Đầu năm 2017, do có nhiều người hỏi mua giấy khám sức khỏe giả nên khi gặp một thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) đến cơ sở chào bán giấy khám sức khỏe giả, Th đã mua của người thanh niên này để bán lại kiếm lời. Th mua với giá 30.000 đồng/01 tờ, bán lại với giá 100.000 - 120.000 đồng/01 tờ. Những tờ giấy khám sức khỏe này đã được điền đầy đủ kết quả, chữ ký, dấu mộc của bác sỹ, kỹ thuật viên và giám đốc Trung tâm y tế huyện Tân Thành, ở phần dán hình ảnh đã được đóng dấu mộc tròn 3/4, còn 1/4 mộc tròn thì sau khi dán ảnh của khách vào giấy khám sức khỏe sẽ dùng bút mực màu đỏ và nắp chai để vẽ lên hình cho khớp với con dấu. Thời điểm này, Th giao cho T1 chịu trách nhiệm nhận hình và hoàn thành giấy khám sức khỏe giả.

Đến cuối năm 2017, Đỗ Cảnh T vào làm việc tại cơ sở SH nên Th giao cho T phụ trách giao hàng văn phòng phẩm, nhận và làm giấy khám sức khỏe giả thay T1. Đến khoảng sau Tết Nguyên Đán 2018, cơ sở SH ngưng bán giấy khám sức khỏe giả do không liên lạc được với người cung cấp.

Đến khoảng tháng 08/2018, do Thị xã PM mới được thành lập và có nhiều công ty cần khắc dấu thay đổi địa chỉ nên Th mua 01 máy khắc dấu để khắc tên, địa chỉ mới cho các công ty có nhu cầu (các dấu hình chữ nhật ghi tên, địa chỉ của Công ty). Th thấy T có thể tự làm dấu và thấy khách vẫn đến hỏi mua giấy khám sức khỏe giả nên Th đã chỉ đạo T làm 01 bộ con dấu tên của các bác sỹ, kỹ thuật viên và dấu mộc tròn của Trung tâm y tế thị xã PM để tự làm giả giấy khám sức khỏe. Sau khi làm xong bộ con dấu, Th giao cho T trực tiếp photocopy giấy khám sức khỏe theo mẫu tải trên mạng về, điền đầy đủ thông tin kết quả khám và đóng dấu mộc. Khi khách có nhu cầu mua giấy thì chỉ cần dán thêm ảnh vào và dùng dấu mộc tròn đóng giáp lai vào ảnh. Th bán giấy khám sức khỏe giả với các mức giá 50.000đ, 60.000đ, 90.000đ, 100.000đ, 120.000đ tùy thuộc vào khách quen hay số lượng giấy khách mua.

Khoảng tháng 4/2019, T nghỉ việc tại cơ sở SH nhưng Th vẫn giao cho T mang mẫu và con dấu về nhà để tiếp tục làm giấy khám sức khỏe giả cho nhà sách SH. T được Th chia 7.500 đ/1 tờ. Theo thống kê số liệu bán hàng từ 10/8/2018 đến 13/8/2019, số giấy khám sức khỏe T đã làm được là: 4078 tờ.

Tổng số tiền T hưởng lợi: 4078 x 7.500 đ = 30.585.000đ. Ngày 20/11/2019, T đã nộp số tiền thu lợi bất chính là 15.000.000đ để khắc phục hậu quả.

Sau khi T nghỉ việc, Th nhận Huỳnh Ngọc M vào làm lại tại cơ sở SH (trước đây, Mai đã từng làm ở cơ sở được khoảng 03-04 tháng vào năm 2017) và giao cho Mai nhiệm vụ bán giấy khám sức khỏe giả. Đến giữa tháng 7/2019, Th không giao cho T làm giấy khám sức khỏe giả nữa mà giao cho Huỳnh Ngọc M thay. Giấy khám sức khỏe giả đã được Mai làm sẵn theo hướng dẫn của Th. Để có chữ ký khác nhau, Th và Mai cùng giả chữ ký bác sĩ vào giấy khám giả. Mỗi khi có khách đến đặt mua giấy khám sức khỏe giả thì T1 hoặc Mai nhận ảnh, thu tiền và hẹn khoảng 02 tiếng sau quay lại lấy. Sau đó, Mai dán ảnh của khách vào giấy khám sức khỏe giả đã có kết quả khám sức khỏe, chữ ký, đóng dấu mộc của các Bác sỹ, Kỹ thuật viên, Phó Giám đốc Trung tâm y tế và và sử dụng con dấu giả đóng giáp lai lên ảnh. Do Mai bắt đầu làm từ ngày 22/7/2019 đến ngày bị bắt, chưa đủ tháng nên chưa được Th chia lợi nhuận.

Qua kiểm tra ứng dụng quản lý bán hàng trên máy vi tính tại cơ sở SH thấy từ ngày 10/8/2018 đến ngày 13/8/2019, cơ sở SH đã làm và bán ra 4.566 tờ giấy khám sức khỏe giả của Trung tâm y tế thị xã PM, tổng số tiền thu được 495.625.000 đ, trừ chi phí giấy, mực in, nhân công (tiền chia cho T 7.500 đ/1 tờ) Th thu được lợi nhuận: 359.125.000 đ,còn trước đó do không có ứng dụng bán hàng nên không lưu lại số lượng giấy khám sức khỏe đã bán ra. Ngày 19/11/2019, Th đã nộp lại số tiền 359.125.000đ để khắc phục hậu quả.

Đối với Lê Thị Cẩm T1, thấy việc làm giấy khám sức khỏe giả dễ dàng mà thu lợi lớn nên đầu năm 2019, T1 sử dụng máy khắc dấu tại cơ sở kinh doanh SH tự làm 01 bộ con dấu giả khác để sử dụng riêng, trong đó có 01 dấu tròn của Trung tâm y tế Thị xã PM. T1 photocopy 200 tờ giấy khám sức khỏe mang về nhà để làm nhưng khi làm được 01 tờ thấy con dấu đóng ra bị nhòe không sử dụng được nên T1 giấu số giấy khám và bộ con dấu giả ở nhà. Quá trình làm việc tại cơ sở SH, T1 quen biết với Nguyễn Văn T2 do T2 thường xuyên đến mua giấy khám sức khỏe giả để bán lại cho khách. Thấy T2 mua giấy khám sức khỏe giả của Th giá cao nên T1 móc nối với T2 tìm người có nhu cầu mua để cung cấp giấy khám sức khỏe giả, T1 bán cho T2 giá 85.000đ/01 tờ. Để có giấy khám sức khỏe giả bán riêng cho T2, T1 lợi dụng buổi trưa không có ai ở lại cơ sở SH, T1 lấy bộ con dấu giả của Th để tự làm giấy khám sức khỏe giả với hình thức tương tự như cách làm của T và Mai thực hiện. Từ tháng 01/2019 đến khi bị bắt, T1 đã làm và bán cho T2 90 giấy khám sức khỏe giả của Trung tâm y tế thị xã PM với giá 85.000đ/01 tờ, thu lời số tiền 7.650.000đ.

Qua làm việc, Nguyễn Văn T2 thừa nhận hành vi mua bán giấy khám sức khỏe giả từ cơ sở SH. Vào khoảng tháng 05/2017, ban đầu T2 mua để làm hồ sơ xin việc nhưng thấy việc bán giấy khám sức khỏe giả có lời nên T2 nảy sinh ý định mua giấy khám sức khỏe giả để bán lại. T2 sử dụng tài khoản Facebook “Tình T Sẻ Chia” đăng bán giấy khám sức khỏe lên các trang tìm kiếm việc làm ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Khi khách có nhu cầu thì gửi hình qua Facebook cho T2 và T2 rửa hình ra rồi đến cơ sở SH để làm. Từ khoảng tháng 05/2017 đến tháng 01/2019, T2 đã mua giấy khám sức khỏe giả từ Th với giá 100.000đ đến 120.000đ/tờ và bán lại cho khách với giá 180.000đ/tờ (cộng thêm phí giao hàng từ 20.000đ đến 30.000đ tùy từng khu vực). Sau khi móc nối, hợp tác với T1 làm giấy khám sức khỏe giả, T2 gửi hình ảnh và địa chỉ của khách qua ứng dụng Zalo cho T1 mà không cần đến cơ sở SH nữa. Sau khi làm xong, T1 tự gửi xe khách theo địa chỉ người nhận T2 nhắn trước đó. Người mua (sử dụng) tự ghi thông tin cá nhân của mình vào giấy. Từ khoảng tháng 01/2019 đến ngày 13/8/2019, T2 đã mua của T1 90 tờ giấy khám sức khỏe giả và bán lại cho khách hàng, thu lời số tiền 8.550.000đ. T2 thanh toán tiền cho T1 bằng hình thức chuyển khoản từ tài khoản ngân hàng Sacombank của mình (số tài khoản 060091033863) đến tài khoản của T1 tại ngân hàng Agribank (số tài khoản 6006205209883) hoặc gặp trực tiếp đưa tiền. Ngày 12/11/2019, T2 đã nộp lại số tiền là 8.550.000đ để khắc phục hậu quả.

Về con dấu “Văn phòng công chứng PM”, Th khai nhận: Do thường được chồng là Nguyễn Duy Hà nhờ đi công chứng các hồ sơ dự thầu của Công ty cổ phần thiết kế và xây dựng SH (do chồng Th đứng tên) nên Th nảy sinh ý định làm giả con dấu của Văn phòng công chứng PM để công chứng hồ sơ dự thầu cho 02 Công ty mà Nguyễn Duy Hà mới thành lập là Công ty TNHH giám sát xây dựng Hoàng Long và Công ty TNHH kiến trúc xây dựng KP (nhờ người khác đứng tên). Th đã chỉ đạo T làm 01 bộ con dấu của Văn phòng công chứng PM gồm dấu mộc tròn của Văn phòng, dấu tên công chứng viên Trần Trung K, dấu chứng thực bản sao đúng với bản chính và sao y bản chính. Tuy nhiên, từ khi thành lập (tháng 01/2019) đến nay, 02 công ty chưa tham gia dự thầu nên các con dấu trên chưa được sử dụng.

Tại bản kết luận luận giám định số 2007/PC09 – Đ2 ngày 13/11/2019 của Phòng KTHS Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận con dấu “Văn phòng công chứng PM” gửi đến giám định là giả.

* Về vật chứng của vụ án:

1. Vật chứng, đồ vật, tài liệu thu giữ khi bắt quả tang:

- 01 (một) con dấu mộc tròn đỏ, có khắc nội dung “SỞ Y TẾ TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU - TRUNG TÂM Y TẾ THỊ XÃ PM”.

- 01 (một) dấu mộc đỏ, hình chữ nhật có khắc nội dung “BỆNH VIỆN BR - TRUNG TÂM CHUẨN ĐOÁN Y KHOA”.

- 01 (một) dấu đỏ có khắc nội dung “KT.GIÁM ĐỐC - PHÓ GIÁM ĐỐC”.

- 01 (một) dấu tên mực màu đỏ có khắc nội dung “Nguyễn L”.

- 01 (một) dấu tên mực màu xanh có khắc nội dung “BS.CKI.Trương Đình H”.

- 01 (một) dấu tên mực màu xanh có khắc nội dung “BS.Nguyễn Văn Th”.

- 01 (một) dấu tên mực màu xanh có khắc nội dung “BS.Nguyễn Xuân S”.

- 01 (một) dấu tên mực màu xanh có khắc nội dung “KTV.Cù Văn T”.

- 01 (một) dấu tên mực màu xanh có khắc nội dung “CN.Nguyễn Thị Liên Ph”.

 - 01 (một) dấu tên mực màu xanh có khắc nội dung “BS.Nguyễn Thị Bích Đ”.

- 01 (một) dấu mực màu xanh có khắc nội dung “Không phát hiện bệnh lý”.

- 01 (một) dấu mực màu xanh có khắc nội dung “Đủ sức khỏe làm việc”.

- 01 (một) cuốn sổ màu hồng, ngoài bìa có ghi “GKSK” bên trong có 02 trang giấy đã ghi chữ viết, nội dung ngày, số lượng tờ và ký nhận.

- 73 (bảy mươi ba) tờ Giấy khám sức khỏe có dán ảnh và đóng dấu giáp lai mộc đỏ, đã ghi kết quả khám có chữ ký và tên bác sỹ, có đóng dấu mộc tròn đỏ “SỞ Y TẾ TỈNH BR-VT- TRUNG TÂM Y TẾ THỊ XÃ PM”, chưa có thông tin người khám. (Được đánh số từ 1 đến 73).

- 12 (mười hai) tờ Giấy khám sức khỏe chưa ghi thông tin người khám, đã ghi kết quả khám sức khỏe, có chữ ký và dấu tên, được đánh số từ 1 đến 12.

- 15 (mười lăm) tờ Giấy khám sức khỏe có dán ảnh và đóng dấu giáp lai, có ghi thông tin người khám và kết quả khám, có chữ ký và đóng dấu tên của bác sỹ, có mộc tròn đỏ “SỞ Y TẾ TỈNH BR-VT - TRUNG TÂM Y TẾ THỊ XÃ PM”, được đánh số từ 1 đến 15.

- 36 (ba mươi sáu) tờ Giấy khám sức khỏe chưa ghi thông tin người khám, chưa ghi kết quả khám, có chữ ký tại mục bác sỹ, được đánh số từ 1 đến 36.

- 43 (bốn mươi ba) tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 04 (bốn) tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 08 (tám) tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng (Tổng số tiền:

7.900.000đ, bảy triệu chín trăm nghìn đồng).

2. Vật chứng, đồ vật, tài liệu thu giữ khi khám xét nhà ở của Đoàn Thị Thu Th :

- 01 (một) con dấu có khắc nội dung “VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG PM”.

- 01 (một) con dấu có khắc nội dung “CHỨNG THỰC BẢN SAO ĐÚNG VỚI BẢN CHÍNH”.

- 01 (một) con dấu có khắc nội dung “Đã thu phí”.

- 03 (ba) con dấu có khắc nội dung lần lượt “Đoàn Thị Thu Th”, “Trần Trung K”, “Nguyễn Sỹ Ng”.

- 01 (một) con dấu có khắc nội dung “Sao y bản chính”.

- 01 con dấu và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH giám sát xây dựng HL, 01 con dấu và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH kiến trúc xây dựng KP, 01 con dấu của Công ty Cổ phần thiết kế xây dựng SH, 01 chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng số BRV-00006910 do Sở Xây dựng tỉnh BR-VT cấp ngày 28/12/2017.

- 01 (một) chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng có dấu đỏ của Bộ Xây dựng.

3. Vật chứng, đồ vật, tài liệu thu giữ của Đoàn Thị Thu Th:

- 01 (một) điện thoại SamSung màu ghi xám có kí hiệu R58K72209D9X, kèm 02 sim IMEI 1: 359116089880802 và IMEI 2: 359117089880800.

- 01 (một) điện thoại Samsung màu vàng có số SN R58K20KKEDF kèm theo 02 sim điện thoại có số IMEI 1: 35481409325035101 và IMEI 2:354815093250358101.

- 01 (một) CPU máy vi tính màu đen hiệu ACCER, SNID 52002266796, số SN: DTVKCSV0125200588B9600.

- 01 (một) máy khắc dấu ký hiệu EB829C0239F80058.

- 01 (một) đầu thu camera màu đen hiệu QUESTEK, số hiệu QTX6116AHD (EU).

4. Vật chứng, đồ vật, tài liệu thu giữ của Lê Thị Cẩm T1:

- 01 (một) dấu mộc tròn mực đỏ có khắc chữ “Sở Y tế tỉnh BR-VT - Trung tâm y tế thị xã PM”.

- 01 (một) dấu tên màu đỏ, mực đỏ khắc chữ “Nguyễn Liên”.

- 01 (một) dấu tên màu đỏ, mực đỏ khắc chữ “KT.GIÁM ĐỐC-PHÓ GIÁM ĐỐC”.

- 01 (một) dấu tên màu xanh, mực xanh có khắc chữ “Đủ sức khỏe làm việc”.

- 01 (một) dấu tên màu xanh, mực xanh có khắc chữ “CN Nguyễn Thị Liên Ph”.

- 01 (một) dấu tên màu xanh, mực xanh có khắc chữ “BS Nguyễn Văn Th”.

- 01 (một) dấu tên màu xanh, mực xanh có khắc chữ “BS Nguyễn Xuân S”.

- 01 (một) dấu tên màu xanh, mực xanh có khắc chữ “BS Nguyễn Thị Bích Đ”.

- 01 (một) dấu tên màu xanh, mực xanh có khắc chữ “BS.CKI Trương Định H”.

- 01 (một) dấu tên màu xanh, mực xanh có khắc chữ “Không phát hiện bệnh lý”.

- 198 (một trăm chín mươi tám) mẫu giấy khám sức khỏe.

- 10 (mười) miếng cao su màu xám sử dụng để làm con dấu đã có khắc chữ: “Nguyễn Liên”, “BS Nguyễn Thị Th”, “BS Nguyễn Xuân S”, “Không phát hiện bệnh lý”, “KT.GIÁM ĐỐC - PHÓ GIÁM ĐỐC”, CN “Nguyễn Thị Liên Phương”, “BS Nguyễn Thị Bích Đ”, “Đủ sức khỏe làm việc”, “KTV Cù Văn T”, “BS.CKI. Trương Đình H”.

- 01(một) miếng cao su màu xám có khắc dấu mộc tròn đỏ “Sở y tế tỉnh BR-VT- Trung tâm y tế thị xã PM”.

5. Vật chứng, đồ vật, tài liệu thu giữ của Huỳnh Ngọc M: 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A71, màu hồng có số EMEI 1: 868837036912612 và số IMEI 2: 868837036912604.

6. Vật chứng, đồ vật, tài liệu thu giữ của Đỗ Cảnh T:

- 04 (bốn) mẫu giấy khám sức khỏe của Trung tâm y tế thị xã PM (mẫu trắng chưa có thông tin).

- 03(ba) mẫu giấy khám sức khỏe của người lái xe, chưa có thông tin người khám.

7. Vật chứng, đồ vật, tài liệu thu giữ của Nguyễn Văn T2: không - Quá trình điều tra có căn cứ xác định: 01 con dấu và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH giám sát xây dựng Hoàng Long, 01 con dấu và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH kiến trúc xây dựng KP, 01 con dấu của Công ty Cổ phần thiết kế xây dựng SH, 01 chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng số BRV-00006910 do Sở Xây dựng tỉnh BR-VT cấp ngày 28/12/2017 và các bằng cấp, tài liệu khác (được nêu cụ thể trong Quyết định xử lý đồ vật tài liệu số 01/ANĐT ngày 20/11/2019) là của ông Nguyễn Duy Hà, được các cơ quan có thẩm quyền cấp theo đúng quy định nên ngày ngày 20/11/2019, Cơ quan An ninh điều tra - Công an tỉnh BR-VT đã trả lại cho ông Hà theo quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số 01/ANĐT.

- Đối với số đồ vật, tài liệu còn lại, hiện Cơ quan ANĐT (PA09) đang tạm giữ, sẽ chuyển Cục THADS tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bảo quản chờ xử lý.

Về trách nhiệm dân sự:

Ngày 12/11/2019, Lê Thị Cẩm T1 đã nộp lại số tiền 7.650.000đ (bảy triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng) là tiền thu lợi bất chính cho cơ quan An ninh điều tra.

Ngày 12/11/2019, T2 đã nộp lại số tiền là 8.550.000đ (tám triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) là tiền thu lợi bất chính cho cơ quan An ninh điều tra.

Ngày 19/11/2019, Đoàn Thị Thu Th đã nộp lại số tiền 359.125.000đ (ba trăm năm mươi chín triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng) là tiền thu lợi bất chính cho cơ quan An ninh điều tra.

Ngày 20/11/2019, Đỗ Cảnh T đã nộp số tiền thu lợi bất chính là 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) cho cơ quan An ninh điều tra.

Hiện toàn bộ số tiền trên và số tiền 7.900.000đ (bảy triệu chín trăm nghìn đồng) thu giữ khi bắt quả tang, Cơ quan An ninh điều tra - Công an tỉnh BR-VT đã gửi vào tài khoản tạm giữ của Công an tỉnh số 3949.0.9042797 tại Kho bạc nhà nước tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2020/HS-ST ngày 06 tháng 05 năm 2020, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rại – Vũng Tàu đã tuyên xử:

Tuyên bố các bị cáo Đoàn Thị Thu Th, Lê Thị Cẩm T1, Huỳnh Ngọc M, Đỗ Cảnh T và Nguyễn Văn T2 phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm a, c khoản 3 Điều 341; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

1/ Xử phạt: Đoàn Thị Thu Th 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được khấu trừ thời gian bị tạm giữ trước đây (từ ngày 13/8/2019 đến ngày 22/8/2019).

+ Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 4 Điều 341 phạt bị cáo Đoàn Thị Thu Th 50.000.000đồng (Năm mươi triệu đồng) để sung công.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 341; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự .

2/ Xử phạt: Đỗ Cảnh T 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3/ Xử phạt: Lê Thị Cẩm T1 26 (hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được khấu trừ thời gian bị tạm giữ trước đây (từ ngày 13/8/2019 đến ngày 22/8/2019).

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 341; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 2 Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự.

4/ Xử phạt: Nguyễn Văn T2 02 (hai) năm tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án (ngày 06/5/2020).

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 2 Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự.

5/ Xử phạt: Huỳnh Ngọc M 18 (mười tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án (ngày 06/5/2020) Ngoài ra, bản án còn tuyên về biện pháp tư pháp - xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 15/5/2020, các bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo và trình bày lý do đã thành khẩn khai báo, đã nộp tiền khắc phục hậu quả, hoàn cảnh gia đình khó khăn, quá trình tại ngoại các bị cáo không vi phạm pháp luật.

Ý kiến của Kiểm sát viên khẳng định về thủ tục tố tụng, giai đoạn tố tụng sơ thẩm và phúc thẩm đã được tiến hành đúng quy định, các chứng cứ đã được thu thập khách quan và đầy đủ. Kết quả điều tra đã đủ cơ sở xác định hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Th là người chủ mưu, cầm đầu chỉ đạo các bị cáo còn lại làm giả các con dấu và giấy khám sức khỏe giả với số lượng lớn, bị cáo còn chỉ đạo cho Đỗ Cảnh T làm giả con dấu của phòng công chứng PM. Bị cáo Đỗ Cảnh T đã thực hiện làm nhiều con dấu và giấy khám sức khỏe theo chỉ đạo của bị cáo Th, sau khi nghỉ việc vẫn tiếp tục làm giả theo yêu cầu của Th. Bị cáo Lê Thị Cẩm T1 cũng thực hiện hành vi theo chỉ đạo của bị cáo Th, còn tự khắc con dấu để làm các giấy khám sức khỏe giả để bán cho bị cáo Nguyễn Văn T2. Các bị cáo thực hiện hành vi trong thời gian dài, thu lợi bất chính lớn, hành vi có tính đồng phạm nên không đủ điều kiện để hưởng án treo. Các bị cáo cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ mới nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 355 Bộ luật hình sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các bị cáo nói lời sau cùng: xin chấp nhận kháng cáo để các bị cáo có điều kiện chăm sóc gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: cấp sơ thẩm đã tiến hành đúng quy định, các chứng cứ đã được thu thập đầy đủ và hợp pháp để giải quyết các vấn đề của vụ án, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng được đảm bảo.

[2] Về nội dung vụ án: căn cứ vào các chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra, các biên bản khám xét, kết quả giám định cùng lời khai của các bị cáo có cơ sở để xác định: Đoàn Thị Thu Th cùng các bị cáo khác trong cùng vụ án đã cố ý cùng nhau làm giả giấy khám sức khỏe nhân danh Trung tâm y tế thị xã PM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để bán cho những người có nhu cầu hoàn tất hồ sơ xin việc. Từ tháng 8 năm 2018 đến ngày bị phát hiện 13 tháng 8 năm 2019 - với sự chỉ huy của Th, các bị cáo đã thực hiện hành vi khắc dấu, điền và ký tên các bác sĩ và những thông tin cần có vào giấy khám sức khỏe giả rồi dán hình, đóng dấu để bán cho người có nhu cầu làm giả giấy khám sức khỏe để kiếm lời. Các bị cáo đã thực hiện hành vi liên tục trong một thời gian dài, thu lợi bất chính lớn, các tang vật thu giữ như máy khắc dấu, các con dấu, bộ máy vi tính và máy in … cho thấy các bị cáo đã có sự chủ động trong trang bị phương tiện công cụ để thực hiện hành vi. Hành vi cuả các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của nhà nước, xâm hại đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức. Ngoài ra, Đoàn Thị Thu Th và Đỗ Cảnh T còn làm giả các văn bản của Phòng công chứng PM để đóng vào các tài liệu trong hồ sơ dự thầu của Công ty Cổ phần thiết kế và xây dựng SH do chồng Th đứng tên cho thấy các bị cáo vì hám lợi mà bất chấp pháp luật, bất chấp hậu quả của hành vi. Xét xử các bị cáo về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự là đúng người đúng tội.

Xét bị cáo Th là người chủ mưu, cầm đầu, hưởng lợi cao nhất so với đồng bọn nên bị áp dụng các tình tiết tăng nặng định khung theo điểm a, c khoản 3 Điều 341 và áp dụng phạt bổ sung là đúng với hành vi cụ thể của bị cáo.

Các bị cáo Lê Thị Cẩm T1, Đỗ Cảnh T, Huỳnh Ngọc M và Nguyễn Văn T2 là nhân viên của Th đã có vai trò giúp sức tích cực – phạm tội thuộc tình tiết tăng nặng theo điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự. Các bị cáo là người được bị cáo Th thuê làm cho công ty do Th làm chủ, các hành vi đã thực hiện chủ yếu theo chỉ đạo của bị cáo Th nên được xem là có sự phụ thuộc nhất định.

Xét án sơ thẩm đã quy kết hành vi của các bị cáo và nhận định về vai trò của từng bị cáo là đúng thực tế, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được vận dụng đầy đủ để cá thể hóa hình phạt. Tuy nhiên, mức án đã tuyên không nặng, đã có sự khoan hồng so với mức độ nghiêm trọng và tính chất nguy hiểm của hành vi.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo xin hưởng án treo nhưng do hành vi đã thực hiện có nhiều tình tiết tăng nặng, hành vi phạm tội có tính đồng phạm, thực hiện trong thời gian dài, thu lợi bất chính lớn nên không có căn cứ để áp dụng hình phạt tù có điều kiện. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo cũng không xuất trình chứng cứ nào mới có ý nghĩa giảm nhẹ nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo. Hội đồng xét xử thống nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên, giữ nguyên án sơ thẩm.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Tuyên bố các bị cáo Đoàn Thị Thu Th, Lê Thị Cẩm T1, Đỗ Cảnh T phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm a, c khoản 3 và khoản 4 Điều 341; điểm b, e,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

1/ Xử phạt: Đoàn Thị Thu Th 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được khấu trừ thời gian bị tạm giữ trước đây (từ ngày 13/8/2019 đến ngày 22/8/2019).

Hình phạt bổ sung: phạt bị cáo Đoàn Thị Thu Th 50.000.000đồng (Năm mươi triệu đồng) để sung công.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 341; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự .

2/ Xử phạt: Đỗ Cảnh T 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3/ Xử phạt: Lê Thị Cẩm T1 26 (hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được khấu trừ thời gian bị tạm giữ trước đây (từ ngày 13/8/2019 đến ngày 22/8/2019).

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 639/2020/HS-PT ngày 26/10/2020 về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:639/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;