Bản án 636/2020/HS-PT ngày 26/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 636/2020/HS-PT NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 266/2020/TLPT- HS ngày 07 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Huỳnh Minh Ph do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 150/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Huỳnh Minh Ph, sinh năm 1995, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 955/8 Ba Đ, Phường x, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 1805 Lock X2, chung cư Sunrise City, số 27 Nguyễn Hữu Thọ, phường Tân Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 10/12;

dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn A và bà Tạ Nghi X; tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 07/11/2018. (Có mặt).

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Ngọc Tr – Văn phòng luật sư HTH, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 00 phút ngày 07/11/2018, tại cổng bảo vệ chung cư Sunrise City, số 27 Nguyễn Hữu Thọ, phường Tân Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội 7 – Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04), Công an Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Lâm Quốc T đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy để bán kiếm lời. Thu giữ trong cốp xe gắn máy biển số 62L1- 326.69 của T đang điều khiển: 01 túi nylon bên trong có 03 gói nylon chứa chất bột màu trắng, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 250,34 gam, loại Ketamine nên đưa T cùng vật chứng vụ án đến Công an phường Tân Hưng, Quận 7 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. T khai nhận đem số ma túy trên đến căn hộ số 1805 Lock X2, chung cư Sunrise City để bán cho Huỳnh Minh Ph.

Tiếp đó, Cơ quan Công an T hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của T tại địa chỉ số 541/11/2F Tỉnh lộ 10, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không thu giữ gì liên quan đến ma túy.

Từ lời khai của T và các chứng cứ thu thập được, lúc 23 giờ 10 phút cùng ngày, Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh T hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Huỳnh Minh Ph tại căn hộ số 1805 Lock X2, chung cư Sunrise City, số 27 Nguyễn Hữu Thọ, phường Tân Hưng, Quận 7, qua kiểm tra đã phát hiện thu giữ trong phòng ngủ của Ph gồm: 01 túi vải đen bên trong có 03 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 15,4364 gam, loại MDMA; 01 gói nylon chứa 197 viên nén hình tam giác màu xanh có in chữ E7A, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 76,5801 gam loại MDMA; 01 gói nylon chứa 753 viên nén hình tròn màu xanh có in chữ LV, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 224,18 gam, loại MDMA; 01 gói nylon chứa 36 viên nén hình tam giác màu xanh có in chữ E7A và 15 viên nén hình chữ nhật màu xám có in chữ Duracell, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 21,5293 gam, loại MDMA; 01 gói nylon bên trong có 09 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 15,9415 gam, loại Ketamine.

Tại thời điểm khám xét căn hộ số 1805 Lock X2, chung cư Sunrise City còn có Trần Ngọc D (bạn gái Ph) đến chơi và Nguyễn Huy H (người thuê 01 phòng riêng ở ghép chung căn hộ với Ph). Quá trình điều tra xác định D và H không biết việc Ph cất giấu và mua bán trái phép chất ma túy.

Tất cả số ma túy thu giữ của T và Ph đã được giám định theo Kết luận giám định số 1819/KLGĐ-H ngày 14/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại cơ quan điều tra:

Lâm Quốc T khai nhận: Qua bạn bè ngoài xã hội, T quen biết với Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm 1980 ngụ tại số 250, Quốc lộ 20, xã Lộc Châu, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng và đối tượng tên H (không rõ lai lịch), do biết Th và H có bán ma túy loại Ketamine và ma túy tổng hợp (thuốc lắc) nên T đã mua ma túy của Th 02 lần, mua thuốc lắc của H 01 lần để bán lại kiếm lời, cụ thể như sau:

- Lần thứ 1: Khoảng đầu tháng 7/2018, T gặp trực tiếp Th để mua 500 gam Ketamin với giá 350.000.000 đồng (trực tiếp giao nhận ma túy và trả tiền), T đem về chỗ ở tại số 541/11/2F Tỉnh Lộ 10, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân cất giấu, rồi phân chia thành nhiều gói nhỏ từ 50g đến 100g để bán hết cho Đạt (không rõ lai lịch) với giá 375.000.000 đồng (7.500.000 đồng/10 gam) tại khu vực đường Tên Lửa, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Lần thứ 2: Khoảng tháng 10/2018, T đến khu vực bến xe Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh gặp H mua 870 viên thuốc lắc hình tròn, màu xanh, in chữ LV với giá 139.200.000 đồng (160.000 đồng/viên), sau đó đem đến căn hộ 1805 Lock X2, chung cư Sunrise City, số 27 Nguyễn Hữu Thọ, phường Tân Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh bán cho Huỳnh Minh Ph với giá 165.000 đồng/viên thỏa thuận trả tiền sau. Khoảng 02 ngày sau thì Ph bán được 170 viên và trả lại cho T 700 viên do kém chất lượng. Sau đó, T đã trả lại 700 viên thuốc lắc này cho H.

- Lần thứ 3: Ngày 29/10/2018, Ph điện thoại cho T đặt mua 500 gam ma túy, loại Ketamine nhưng sau đó Ph điện thoại lại cho T nói chỉ mua 250 gam với giá 185.000.000 đồng, T đồng ý. T điện thoại cho Th đặt mua 500 gam ma túy loại Ketamine với giá 350.000.000 đồng. T yêu cầu Ph trả trước 100.000.000 đồng bằng hình thức chuyển tiền vào số tài khoản 64210000502596 của Th tại Ngân hàng BIDV chi nhánh Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, còn lại 85.000.000 đồng sẽ trả sau. Ph đồng ý chuyển 100.000.000 đồng cho Th theo yêu cầu của T. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, Th điện thoại cho T thông báo đã gửi 500 gam ma túy loại Ketamine cho T trong gói hàng hóa theo xe khách từ Lâm Đồng đi Thành phố Hồ Chí Minh và kêu T tự liên lạc với nhà xe để nhận gói hàng bên trong có ma túy. Sau đó, T đến nhà xe tại khu vực đường Thành Thái, Quận 10 để nhận gói ma túy trên đem về nhà số 541/11/2F Tỉnh Lộ 10, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân phân chia thành 02 gói bằng nhau, mỗi gói có khối lượng 250 gam. T lấy 01 gói bán cho Đạt giá 187.500.000 đồng, 01 gói còn lại T đem đến căn hộ số 1805 Lock X2, chung cư Sunrise City bán cho Ph nhưng chưa bán được thì bị bắt giữ.

Huỳnh Minh Ph khai nhận: Khoảng tháng 7/2017, Ph quen biết T, T nói với Ph là có bán ma túy thuốc lắc và Ketamine vơi giá rẻ và cho Ph 03 viên thuốc lắc để sử dụng. Đến khoảng tháng 8/2017 cho đến ngày bị bắt, Ph đã nhiều lần mua ma túy, loại Ketamine và thuốc lắc của T và một người thanh niên tên Tài (không rõ lai lịch) để bán lại cho người nghiện kiếm lời, giá mỗi viên thuốc lắc từ 185.000 đồng đến 250.000 đồng/1 viên (tùy thuộc vào số lượng đặt mua), Ketamine giá 10.000.000 đồng đến 11.000.000 đồng/10 gam, cụ thể:

- Lần thứ 1: Khoảng tháng 8/2017, tại địa chỉ 137 Trần Đình Xu, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Ph mua của T 100 viên thuốc lắc giá 170.000 đồng/1 viên và 100 gam ma túy loại Ketamine giá 88.000.000 đồng. Sau đó, Ph đem về nhà dùng cân điện tử phân chia thành nhiều gói nhỏ bán hết cho nhiều người nghiện (không rõ lai lịch).

- Lần thứ 2: Khoảng tháng 11/2017, Ph mua của T 200 viên thuốc lắc giá 170.000 đồng/1 viên và 100 gam Ketamine giá 88.000.000 đồng. Sau đó, Ph đem về nhà phân chia thành nhiều gói nhỏ bán hết số ma túy trên cho người nghiện.

- Lần thứ 3: Khoảng tháng 4/2018, T đem đến căn hộ 1805 Lock X2, chung cư Sunrise City bán cho Ph 500 gam Ketamine giá 350.000.000 đồng. Ph phân chia thành nhiều gói nhỏ bán cho người nghiện, còn lại 11 gói Ph cất giấu chưa kịp bán thì bị khám xét thu giữ.

- Lần thứ 4: Khoảng tháng 10/2018, T đến căn hộ 1805 Lock X2, chung cư Sunrise City bán cho Ph 250 viên thuốc lắc có in chữ DURACELL với giá 220.000 đồng/viên, Ph bán hết 204 viên giá 270.000 đồng/viên, còn lại 46 viên thì bị khám xét thu giữ.

- Lần thứ 5: Khoảng cuối tháng 10/2018, T đến căn hộ 1805 Lock X2, chung cư Sunrise City bán cho Ph 870 viên thuốc lắc hình tròn, màu xanh dương, in chữ LV vơi giá 165.000 đồng/viên, Ph đã bán được 135 viên nhưng do số thuốc lắc này kém chất lượng không bán được nên Ph điện thoại cho T đề nghị trả lại 735 viên nhưng T chưa đến nhận lại thì bị khám xét thu giữ.

- Lần thứ 6: Ngày 29/10/2018, Ph gọi điện cho T đặt mua 500 gam Ketamine nhưng do không đủ tiền nên Ph chỉ mua 250 gam vơi giá 185.000.000 đồng, Ph đã trả trước 100.000.000 đồng bằng cách chuyển khoản vào tài khoản của Th theo yêu cầu của T, Ph không biết Th là ai, còn lại 85.000.000 đồng sẽ trả sau khi bán hết ma túy. Khi T đem 250 gam Ketamine đến trước cổng bảo vệ căn hộ chung cư Sunrise City giao cho Ph nhưng chưa kịp giao thì bị bắt quả tang.

Ngoài ra vào khoảng tháng 10/2018, Ph còn mua của Tài (không rõ lai lịch) 350 viên thuôc lắc có in chữ EA7 với giá 165.000 đồng/viên, Ph đã bán cho khách được 117 viên giá từ 185.000 đồng/viên đến 250.000 đồng/viên, còn lại 233 viên thì bị khám xét thu giữ.

Kết quả ghi lời khai và đối chất giữa T và Ph thì T chỉ thừa nhận đã đem 250 gam Ketamine đến chung cư Sunrise City bán cho Ph nhưng chưa giao được ma túy cho Ph thì bị bắt quả tang. Riêng 870 viên thuốc lắc T bán cho Ph thì Ph bán hết 170, còn lại 700 viên Ph đã trả lại cho T cho ma túy kém chất lượng và T đã trả lại hết cho H nên 735 viên thuốc lắc có khối lượng 224,18 gam, loại MDMA thu giữ tại nhà của Ph không pH của T. Ngoài ra, T không giao dịch mua bán ma túy với Ph lần nào khác.

Nguyễn Thị Kim Th không thừa nhận đã thực hiện hành vi mua bán ma túy với Lâm Quốc T như T đã khai nhận. Trước đó Th có hùn vốn với một người đàn ông (không rõ lai lịch) để kinh doanh quán ăn tại khu vực đường Sư Vạn Hạnh, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và có quen biết với T, sau đó Th đã sang nhượng lại phần vốn góp cho T tiếp tục kinh doanh. Thời gian này, Th đã nhiều lần cho T, Bình và nhiều người khác (không rõ lai lịch) vay mượn tiền. Sau đó T đã trả hết tiền đã vay mượn cho Th, riêng Bình thì nhiều lần nhờ người khác chuyển tiền vào tài khoản của Th để trả nợ nên sau khi nhận được 100.000.000 đồng từ tài khoản của Ph thì Th nghĩ là tiền của Bình nhờ người khác chuyển khoản trả nợ. Sau khi làm việc với Cơ quan điều tra, Th biết rõ nguồn gốc số tiền trên là do hoạt động mua bán ma túy của Ph và T nên đã nhờ người anh họ là Nguyễn Nhân Trường, sinh năm 1977 ngụ tại số 79/20 Nguyễn Văn Trỗi, Tổ 6, Phường 2, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng nộp lại số tiền trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra để nộp vào tài khoản tại Kho bạc Nhà nước Quận 10 chờ xử lý theo quy định. Ngoài lời khai của T không có chứng cứ nào khác chứng minh Th đã bán ma túy cho T nên chưa đủ căn cứ xử lý Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với vai trò đồng phạm với bị cáo T.

Vật chứng thu giữ gồm:

- Thu giữ của Lâm Quốc T: 01 gói niêm phong bên ngoài ghi số 1819/2019, có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo và Điều tra viên Nguyễn Văn Phúc, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, sim số 0931477999 của T dùng để liên lạc gia đình và mua bán ma túy; 01 xe gắn máy hiệu Air Blade biển số 62L1-326.69; số khung: RLHJF461XEY493771; số máy JF46E5167752 do anh Bùi Văn Sang, sinh năm 1980 ngụ tại ấp Cầu Xây, xã Long Trạch, huyện Cần Đước, tỉnh Long An đứng tên sở hữu. Anh Sang đã bán xe trên cho T nhưng không làm thủ tục mua bán, sang tên theo quy định. Bị can T khai đã sử dụng xe này để đi lại và mua bán ma túy. Số tiền 2.000.000 đồng của cá nhân T, Cơ quan điều tra đã nộp vào tài khoản tại Kho bạc Nhà nước Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Thu giữ của Huỳnh Minh Ph: 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 1819 (gói 2), 1819 (gói 3) có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo và Điều tra viên Nguyễn Văn Phúc, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 cân điện tử màu đen là của Ph sử dụng để phân chia ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc và 02 đện thoại Iphone màu đen của Ph sử dụng để liên lạc với gia đình và bạn bè không liên quan đến hành vi mua bán ma túy; 01 điện thoại Iphone màu trắng, sim số 01277771898 là của Ph sử dụng liên lạc với gia đình và mua bán ma túy; 01 xe gắn máy hiệu Honda SH biển số 59G1-235.36, số khung: ZDCKF10B09F012715; số máy KF08E-1016048 do bị can Ph đứng tên chủ sở hữu. Cơ quan điều tra đã lập biên bản chuyển kho vật chứng thuộc Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh chờ xử lý theo quy định. Số tiền 20.000.000 đồng, Cơ quan điều tra đã nộp vào tài khoản tại Kho bạc Nhà nước Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh để quản lý theo quy định.

Tại Kết luận giám định số 1819/KLGĐ-H ngày 14/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Gói 1: tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 ( được niêm phong có chữ ký ghi tên Lâm Quốc T ) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 250,34 gram, loại Ketamine.

- Gói 2: ( được niêm phong có chữ ký ghi tên Huỳnh Minh Ph ) + tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 250,10 gram, loại Ketamine.

+ 31 viên nén hình chữ nhật màu xám có khắc chữ DURACELL được ký hiệu mẫu m3 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 15,4564 gram, loại MDMA.

+ 197 viên nén hình tam giác màu xanh có khắc chữ EA7 được ký hiệu mẫu m4 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 76,5801gram, loại MDMA.

+ 735 viên nén hình tròn màu xanh dương có khắc chữ LV được ký hiệu mẫu m5 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 224,18 gram, loại MDMA.

- Gói 3: ( được niêm phong có chữ ký ghi tên Huỳnh Minh Ph ) + 36 viên nén hình tam giác màu xanh có khắc chữ EA7 ký hiệu mẫu m6 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 14,1490 gram, loại MAMD.

+ 15 viên nén hình chữ nhật màu xám có khắc chữ DURACELL được ký hiệu mẫu m7 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 7,3803 gram, loại MDMA.

+ tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m8 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 15,9415gram, loại Ketamine.

Tại Bản Cáo trạng số 64/CT-VKS-P1 ngày 13/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Huỳnh Minh Ph về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; bị cáo Lâm Quốc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 150/2020/HS-ST ngày 27 tháng 5 năm 2020, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

1. Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Huỳnh Minh Ph tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2018.

2. Căn cứ điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lâm Quốc Tiến 16 (mười sáu) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2018.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 03/6/2020 bị cáo Huỳnh Minh Ph kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa:

Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo với các lý do án sơ thẩm đã tuyên hình phạt nặng đối với hành vi của bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhận định cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đã đánh giá đúng tính chất nguy hiểm của hành vi mà bị cáo thực hiện. Hình phạt đã tuyên đã có xem xét các tình tiết giảm nhẹ và tương xứng với mức độ đặc biệt nguy hiểm của hành vi và nhân thân bị cáo. Kháng cáo của bị cáo không có căn cứ vì không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Để đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa đối với loại tội phạm này cần xử phạt thật nghiêm. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh và điều khoản áp dụng, tuy nhiên chưa đồng tình về hình phạt đã tuyên do bị cáo đã thành khẩn khai báo, có khai báo rõ ràng về các đối tượng có liên quan đến việc mua bán cho thấy bị cáo có ăn năn hối cải về hành vi đã thực hiện; số ma túy bị cáo mua để bán lại vẫn chưa phát tán ra xã hội nên hậu quả có hạn chế; bản thân bị cáo chưa tiền án tiền sự, tuổi đời còn trẻ nên còn bồng bột. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo để bị cáo có điều kiện sớm hòa nhật cộng đồng.

Bị cáo nói lời sau cùng: chỉ xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo rất hối hận về hành vi đã thực hiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: cấp sơ thẩm đã tuân thủ đúng quy định về tố tụng, các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng được đảm bảo, bị cáo đã được tự nguyện khai báo không bị ép cung, nhục hình.

[2] Về nội dung vụ án: Căn cứ biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với Lâm Quốc T, Biên bản khám xét nơi ở của Huỳnh Minh Ph, kết quả giám định và lời khai nhận của các bị cáo, người làm chứng có cơ sở xác định Lâm Quốc T đã bán ma túy cho Huỳnh Minh Ph và bị bắt quả tang trên đường đi giao ma túy. Huỳnh Minh Ph cũng thừa nhận hành vi mua bán ma túy cho nhiều ngưi. Lời thừa nhận này phù hợp với các chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra như Cáo trạng đã thể hiện. Với khối lượng các chất ma túy được kết luận qua giám định, xét xử các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng hành vi thực tế.

Đối với Huỳnh Minh Ph, bị cáo bị quy kết phạm tội dựa trên số lượng ma túy bắt quả tang đối với Lâm Quốc T và số ma túy thu được theo kết quả khám xét nơi ở của bị cáo tại căn hộ số 1805 Lock X2, chung cư Sunrise City số 27 Nguyn Hữu Thọ, phường Tân Hưng, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh với khối lượng ma túy tổng cộng là 854,1073 gram gồm hai loại ma túy là Ketamin và MDMA. Hành vi thuộc tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Đối với nội dung kháng cáo: bị cáo Huỳnh Minh Ph kháng cáo xin giảm án với lý do án sơ thẩm xử nặng, bị cáo không xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Xét hành vi của bị cáo đã thực hiện là đặc biệt nguy hiểm, khối lượng ma túy mua bán là lớn, có thể phát tán ra ngoài xã hội gây hệ lụy xấu. Trong tình hình tội phạm về mua bán ma túy diễn biến phức tạp trên địa bàn thành phố hiện nay, hành vi này nếu không xử phạt nghiêm khắc sẽ làm giảm hiệu quả đấu tranh, ngăn ngừa tội phạm. Án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ để tuyên phạt tương xứng. Không có căn cứ để giảm án cho bị cáo, theo đề nghị của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thống nhất giữ nguyên án sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Huỳnh Minh Ph tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2018.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo pH chịu 200.000 đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 636/2020/HS-PT ngày 26/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:636/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;