TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 634/2023/HS-PT NGÀY 21/08/2023 VỀ TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ
Ngày 21 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 703/TLPT-HS ngày 07 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn Th do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 29/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh T.
* Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn Th, sinh năm 1979; nơi cư trú: Thôn 12, xã VTh, huyện VL, tỉnh ThH; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn Côi và bà Phạm Thị Túc; Có vợ là Bùi Thị L (đã ly hôn) và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 25/12/2022 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà khởi tố về tội “Đe dọa giết người” theo khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự. Ngày 11/5/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà ra Quyết định thay đổi Quyết định khởi tố vụ án và Quyết định thay đổi Quyết định khởi tố bị can về tội “Giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/12/2022 đến ngày 26/12/2022 chuyển tạm giam đến nay; trích xuất có mặt. Bị Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử sơ thẩm và xử phạt 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ” theo khoản 1 Điều 305 BLHS tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 29/5/2023;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/12/2022 đến ngày 26/12/2022 chuyển tạm giam đến nay; trích xuất có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị và có người làm chứng Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Năm 2004, Nguyễn Văn Th kết hôn với chị Bùi Thị L, hai người làm ăn sinh sống tại quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình chung sống, hai vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Văn H1 và Nguyễn Văn H đồng thời mua được 01 mảnh đất diện tích 160m2 ở xã Sơn Bình, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, chị L là người giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2013, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, chị L và cháu H về tổ dân phố Vân Đông, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà sinh sống; Th và cháu H1 về xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa sinh sống. Năm 2016, vợ chồng ly hôn, chị L nuôi hai con.
Ngày 18/10/2022, Th đi xe mô tô ra tổ dân phố Vân Đông, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh T đến nhà gặp chị L yêu cầu bán mảnh đất tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để chia đôi nhưng chị L không đồng ý. Th nảy sinh ý định chế tạo mìn và “bom xăng” để đe dọa giết chị L. Th quay về tỉnh Thanh Hóa, vào cửa hàng của gia đình ông Trần Đăng Vần mua 01 ống nhựa PVC đường kính 60mm, dài 02m và 18 nắp nhựa bịt đầu ống nhựa với giá 200.000 đồng mang về nhà để chế tạo mìn nổ. Ngày 20/10/2022, Th đi ra quốc lộ 217 địa phận giữa huyện Vĩnh Lộc và huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa gặp một người đàn ông khoảng 60 tuổi lái xe tải Th không biết tên, tuổi, địa chỉ mua 04 kg thuốc nổ và 11 kíp nổ điện, 09 kíp nổ đốt, 01 mét dây cháy chậm với giá 1.500.000 đồng rồi mang về nhà.
Khoảng 01 giờ đến 03 giờ ngày 21/10/2022, Th dùng cưa tay có sẵn để cưa ống nhựa PVC đã mua thành 08 đoạn có độ dài khác nhau (03 đoạn dài từ 32cm đến 36,5cm; 05 đoạn từ 21,5 đến 22cm), dùng nắp nhựa bịt đầu ống và keo dán bịt một đầu của các đoạn ống lại rồi dùng thanh sắt đốt nóng đục thủng 01 lỗ nhỏ bằng đầu đũa tại các nắp bịt đầu ống còn lại. Th cắt dây cháy chậm thành 08 đoạn, đầu mỗi đoạn cho vào lỗ của một kíp nổ đốt. Th lần lượt chế tạo từng quả mìn nổ kích thước, đường kính khác nhau, như sau: Đầu tiên cho thuốc nổ vào hai đoạn ống nhựa PVC đã bịt một đầu rồi cho kíp nổ điện và kíp nổ đốt (gắn dây cháy chậm) vào bên trong ống sau đó cho tiếp thuốc nổ vào đầy ống, tiếp tục luồn dây điện của kíp nổ điện và dây cháy chậm qua lỗ đã đục sẵn của nắp bịt đầu ống còn lại rồi dùng keo dán kín đầu ống. Sau khi chế tạo được 08 quả mìn (chiều dài từ 21,5cm đến 36,5cm; đường kính 60mm) còn thừa ít thuốc nổ Th lấy một đoạn ống nhựa đường kính 34mm có sẵn, cưa một đoạn dài khoảng 20cm và sử dụng đoạn ống này chế tạo 01 quả mìn giống như 08 quả trước, do hết dây cháy chậm nên quả mìn này Th lắp 02 kíp nổ điện không lắp kíp nổ đốt, còn thừa 01 kíp nổ điện và 01 kíp nổ đốt. Th cất 09 quả mìn vào ba lô màu đen để trên nóc tủ nhôm kính tại kho để đồ. Trưa ngày 16/12/2022, Th đi mua băng dính, dây thép và đến cây xăng V, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa mua 100.000 đồng tiền xăng đựng vào can 05 lít mang về nhà đổ vào 06 vỏ chai thủy tinh màu nâu (dạng vỏ chai bia loại 330ml mặt ngoài dán nhãn “THANH HOA”) dùng vải bịt kín lại. Sau đó, Th lấy ba lô đựng 09 quả mìn trên nóc tủ xuống cho thêm vào balô máy gây nổ, dây thép, băng dính, 01 cuộn dây điện, kìm, bật lửa, đèn pin, dao và lấy chiếc túi xách màu trắng đen đựng 06 chai xăng. Th đeo ba lô màu đen lên vai, xách túi xách màu trắng đen đi bộ ra chợ Hôm thuộc xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa đón xe buýt đi ra quốc lộ 1A, xuống xe đón xe ô tô khách đi đến ga Đồng Văn - tỉnh Hà Nam, tiếp tục đón xe buýt, xe ôm đến tổ dân phố Vân Đông, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh T.
Khoảng 19 giờ cùng ngày, Th đi bộ đến nhà chị L nhưng do cổng khóa nên Th trèo qua bờ tường vào vườn. Tại đây, Th kết nối 07 quả mìn lại với nhau để trong balô màu đen và kết nối với máy gây nổ cắm sẵn khóa; lấy 01 quả mìn cài vào dây thắt lưng cùng với máy gây nổ; lấy 01 quả mìn và 01 chai xăng gắn với nhau bằng băng dính. Sau đó, đeo balô trên vai phải, đeo túi xách trên vai trái, tay phải cầm chai xăng có gắn quả mìn, bật lửa đốt cháy phần nút chai bằng vải rồi đi vào nhà chị L. Khi đến cửa nhà gặp cháu H1, Th hỏi “Mẹ mày đâu?” đồng thời tay phải cầm chai xăng gắn mìn đang cháy ở nút chai đập về phía đầu cháu H1, cháu H1 tránh được nên không trúng, chai xăng và quả mìn rơi xuống nền nhà, Th cúi xuống nhặt chai xăng và quả mìn cầm đi vào buồng, nhìn thấy chị L hỏi “Có về không?”, chị L nói “Có về, ba mẹ con cùng về”, đồng thời kéo Th ra sân, Th đi theo nói “Nếu không về sẽ nổ mìn để tất cả cùng chết”, hai bên giằng co, chị L kéo Th ra đường làng phía sau nhà vừa đi vừa dùng khăn dập lửa đang cháy ở miệng chai, Th lấy dao mang theo cắt băng dính đang kết nối giữa chai xăng và quả mìn đồng thời nói “mày có muốn chết không?”, chị L nói “tôi muốn sống các con tôi cần tôi biết không”. Lúc này anh Bùi Quang Tín đến, chị L giằng được quả mìn trên tay Th đưa cho anh Tín và tiếp tục giằng chai xăng ném đi, giằng túi đựng xăng ném vào vườn, dùng tay giật đứt dây điện đang nối giữa máy gây nổ đeo trước bụng và các quả mìn trong balô. Lúc này Th cho 01 kíp nổ vào miệng cắn để kích nổ nhưng không được. Sau đó, Công an thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà đến khống chế đưa Th về Công an thị trấn Hưng Nhân để làm việc.
Ngày 17/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà khám xét chỗ ở của Nguyễn Văn Th thu giữ 01 lưỡi cưa bằng kim loại kích thước 30x2cm và 01 đoạn ống nhựa hình trụ màu xám kích thước đường kính 3,4cm, dài 130cm.
Bản Kết luận giám định số 8820/KL-KTHS ngày 22/12/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận:
“Mẫu vật có ký hiệu A1 gồm:
+ 01 ống nhựa dài 20cm, đường kính 3,4cm, bên trong có chứa: 02 kíp nổ điện vỏ bằng nhôm và 130g (một trăm ba mươi gam) thuốc nổ công nghiệp Amônit. Cơ chế gây nổ của quả nổ bằng điện. Khi nổ bán kính sát thương bằng mảnh vỏ của quả nổ khoảng 2 mét;
+ 05 ống nhựa dài 21,5cm đến 22cm, đường kính 6cm, bên trong mỗi ống có chứa: 01 kíp nổ điện vỏ bằng nhôm và 01 kíp nổ đốt vỏ bằng vỏ nhôm; 01 đoạn dây cháy chậm dài 27cm; 354g (ba trăm năm mươi tư gam) thuốc nổ công nghiệp Amônit. Cơ chế gây nổ của quả nổ bằng điện hoặc đốt dây cháy chậm gây nổ kíp, kích nổ quả nổ. Khi nổ bán kính sát thương bằng mảnh vỏ của quả nổ khoảng 4 mét;
+ 01 ống nhựa dài 36,5cm, đường kính 6cm, bên trong mỗi ống có chứa:
01 kíp nổ điện vỏ bằng nhôm và 01 kíp nổ đốt vỏ bằng nhôm; 01 đoạn dây cháy chậm dài 50cm; 800g (tám trăm gam) thuốc nổ công nghiệp Amônit. Cơ chế gây nổ của quả nổ bằng điện hoặc đốt dây cháy chậm gây nổ kíp, kích nổ quả nổ. Khi nổ bán kính sát thương bằng mảnh vỏ của quả nổ khoảng 9 mét;
+ 01 ống nhựa dài 35cm, đường kính 6cm, bên trong mỗi ống có chứa: 01 kíp nổ điện vỏ bằng nhôm và 01 kíp nổ đốt vỏ bằng nhôm; 01 đoạn dây cháy chậm dài 27cm; 700g (bẩy trăm gam) thuốc nổ công nghiệp Amônit. Cơ chế gây nổ của quả nổ bằng điện hoặc đốt dây cháy chậm gây nổ kíp, kích nổ quả nổ. Khi nổ bản kinh sát thương bằng mảnh vỏ của quả nổ khoảng 8 mét;
+ 01 ống nhựa dài 32cm, đường kính 6cm, bên trong mỗi ống có chứa: 01 kíp nổ điện vỏ bằng nhôm và 01 kíp nổ đốt vỏ bằng nhôm; 01 đoạn dây cháy chậm dài 27cm; 600g (sáu trăm gam) thuốc nổ công nghiệp Amônit. Cơ chế gây nổ của quả nổ bằng điện hoặc đốt dây cháy chậm gây nổ kíp, kích nổ quả nổ. Khi nổ bán kính sát thương bằng mảnh vỏ của quả nổ khoảng 7 mét;
Tất cả các quả nổ trên đều còn sử dụng được.
Mẫu vật có ký hiệu A2 là kíp nổ điện vỏ nhôm. Kíp nổ có tác dụng kích nổ thuốc nổ, còn sử dụng được.
Mẫu vật có ký hiệu A3 là kíp nổ đốt vỏ nhôm. Kíp nổ có tác dụng kích nổ thuốc nổ, không còn sử dụng được.
Mẫu vật có ký hiệu A4 là máy nổ mìn điện, còn sử dụng được. Máy nổ mìn điện là thiết bị chuyên dùng để kích nổ kíp nổ điện.
Chất lỏng trong 02 chai thủy tinh miệng được bịt vải gửi giám định là xăng, thuộc danh mục các hóa chất nguy hiểm dễ cháy nổ.
Trong vỏ chai thủy tinh không có nắp và các mảnh thủy tinh trong mẫu 46 đều tìm thấy xăng, thuộc danh mục các hóa chất nguy hiểm dễ cháy nổ”.
Cáo trạng số 21/CT-VKSTB ngày 19 tháng 4 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T truy tố bị cáo Nguyễn Văn Th về tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ” theo khoản 1 Điều 305 của Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 29/5/2023, Toà án nhân dân tỉnh T đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th mức án 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn Th.
3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 12/6/2023, Trại Tạm giam Công an tỉnh T nhận được đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn Th.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Văn Th giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và trình bày: bị cáo bức xúc với vợ cũ của bị cáo nên không làm chủ được bản thân nhất thời phạm tội; bị cáo còn phải nuôi bố mẹ già nên mong được giảm án để cải tạo được sớm trở về.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm:
Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn nên cần được chấp nhận để xem xét. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo tiếp tục khai nhận thành khẩn toàn bộ hành vi của mình; lời khai phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ nên có đủ căn cứ xác định bị cáo đã mua vật liệu, chế tạo, vận chuyển và sử dụng 09 quả mìn nổ cùng máy gây nổ từ nhà ở của bị cáo đến nhà chị Bùi Thị L sử dụng đe dọa giết chị L; hành vi của bị cáo được chị L, anh Bùi Quang Tín và lực lượng Công an khống chế kịp thời nên chưa gây hậu quả. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Th là nguy hiểm cho xã hội, toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ” theo khoản 1 Điều 305 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người đúng tội; hình phạt áp dụng đối với bị cáo là đã xem xét khoan hồng phù hợp với quy định. Nay không có tình tiết gì mới nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Th làm trong thời hạn quy định nên được chấp nhận để xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, không có tố cáo, khiếu nại nên đều đúng quy định pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo không nộp thêm tài liệu gì mới.
[2] Về nội dung, xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn Th:
Tại phiên tòa bị cáo tiếp tục thành khẩn thừa nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã quy kết. Lời khai của bị cáo một lần nữa được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định: Do nhiều lần yêu cầu chị Bùi Thị L bán mảnh đất chung của hai vợ chồng ở tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu mua trước khi ly hôn để chia cho Nguyễn Văn Th một nửa nhưng chị L không đồng ý, Nguyễn Văn Th đã nảy sinh ý định chế tạo mìn đe dọa giết chị L. Tháng 10/2022, Th đi mua các công cụ, phương tiện (ống nhựa, 4 kg thuốc nổ, 11 kíp nổ điện, 09 kíp nổ đốt, 01 mét dây cháy chậm...) về chế tạo mìn. Ngày 21/10/2022, Th đã chế tạo 09 quả mìn nổ, sau đó cất giấu tại nhà ở Thôn 12, xã VTh, huyện VL, tỉnh ThH. Ngày 16/12/2022, vận chuyển 09 quả mìn nổ cùng máy gây nổ đến nhà chị Bùi Thị L sử dụng đe dọa giết chị L, được chị L, anh Bùi Quang Tín và lực lượng Công an khống chế kịp thời nên chưa gây hậu quả.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm các quy định của Nhà nước về chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán và quản lý các vật liệu nổ. Hậu quả chưa xảy ra là nằm ngoài ý muốn của bị cáo. Vì vậy tại bản án sơ thẩm đã xét xử, tuyên phạt bị cáo 03 năm 09 tháng tù về tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ” theo khoản 1 Điều 305 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ nên đã tương xứng với tính chất và mức độ hành vi của bị cáo.
Nay bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết gì mới nên không có căn cứ để chấp nhận.
[3] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Th phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên, Căn cứ khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Th.
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 29/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh T, cụ thể như sau:
Căn cứ khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ”.
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th mức án 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn Th.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 634/2023/HS-PT về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ
Số hiệu: | 634/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về