TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ M’GAR, TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 63/2022/DS-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÍN DỤNG
Ngày 21 tháng 9 năm 2022 tại hội trường Toà án nhân dân huyện Cư M’gar xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 155/2022/TLST-DS ngày 06 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2022/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2022/QĐST-DS ngày 31 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP A Địa chỉ: số V đường NTMK, Phường X, Quận Z, TP. Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Thanh H– Chức vụ: giám đốc phòng quản lý nợ
+ Người được ủy quyền lại tham gia tố tụng: Ông Đào Ngọc M (có mặt) Địa chỉ: số Q, Y J, p. T L, TP. BMT, Đăk Lăk.
- Đồng bị đơn: Ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N Địa chỉ: thôn W, xã E K, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 13/4/2022 của Ngân hàng thương mại cổ phần A trình bày:
Ngày 14/10/2021, ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N đã ký kết hợp đồng tín dụng số QPH.CN.3548.121021 với Ngân hàng thương mại cổ phần A để vay với số tiền 580.000.000đ; mục đích sử dụng vay: sản suất kinh doanh; lãi suất vay:
9%/năm lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn 10%/năm và lãi suất chậm trả là 150%/năm lãi trong hạn; Phương thức trả nợ: trả lãi 12 tháng, kể từ ngày ký kết hợp đồng tín dụng (14/10/2022).
Để bảo đảm khoản vay trên giữa ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N với Ngân hàng thương mại cổ phần A đã ký kết 01 hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số QPH.BĐCN.274.121021 ngày 13/10/2021, gồm có tài sản thế chấp sau:
+ Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền trên đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số 1, có diện tích 20.220m2 đất trồng cây lâu năm, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725176 do ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar cấp ngày 11/4/2014 cấp cho bà H D Niê đã chuyển nhượng trang 4 cho ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N ngày 23/3/2018, thửa đất tại địa chỉ xã Cư Đliê Mnông, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk.
- Nay ngân hàng thương mại cổ phần A làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ A số tiền 596.624.446đ (trong đó gốc là 580.000.000đ, lãi trong hạn là 16.322630 và lãi quá hạn 301.836đ) tạm tính đến ngày 01/4/2022 và tiếp tục tính lãi từ ngày 02/4/2022 cho đến khi ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N trả nợ xong.
Trường hợp ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng thương mại cổ phần A có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế phát mãi tài sản đảm bảo đã thế chấp.
Đồng bị đơn ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N: Trong quá trình giải quyết Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar đã triệu tập ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N để giao thông báo thụ lý vụ án, làm bản tự khai, thông báo về phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N vắng mặt không có lý do. Qua xác minh tại chính quyền địa phương vào ngày 20/7/2022 được biết ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N có hộ khẩu thường trú tại thôn W, xã E K, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk nhưng ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N thường xuyên vắng mặt vào giờ làm việc hành chính.
Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng của nguyên đơn ông Đào Ngọc M vẫn giữ nguyên yêu cầu như đơn khởi kiện.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng:
Đối với Thẩm phán đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, còn vi phạm thời hạn xét xử.
Đối với Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Đối với nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với bị đơn Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn không chấp hành theo đúng quy định của pháp luật tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, Điều 464, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự; Điều 91, Điều 94 Luật các tổ chức tín dụng.
Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần A. Buộc ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N phải trả cho số tiền 596.624.446đ (trong đó gốc là 580.000.000đ, lãi trong hạn là 16.322630 và lãi quá hạn 301.836đ) tạm tính đến ngày 01/4/2022 và tiếp tục tính lãi từ ngày 02/4/2022 cho đến khi ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N trả hết số tiền trên cho Ngân hàng thương mại cổ A. Trường hợp ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N không trả được số tiền trên thì Ngân hàng thương mại cổ phần A có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự kê biên, xử lý, bán giá tài sản đã thế chấp để trả nợ cho Ngân hàng. Trường hợp ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N trả nợ được cho Ngân hàng thì Ngân hàng thương mại cổ phần A có trách nhiệm trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N Về án phí: Ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật:
Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về tố tụng:
Trong quá trình đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt.
[3] Về nội dung:
[3.1] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy giữa ngân hàng thương mại cổ phần A với ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N có thỏa thuận ký kết hợp đồng tín dụng số QPH.CN.3548.121021 ngày 14/10/2021. Để đảm bảo khoản vay 580.000.000đ ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N đã ký 01 hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số QPH.BĐCN.274.121021 ngày 13/10/2021 với Ngân hàng thương mại cổ phần A. Xét thấy hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản được các bên tự nguyện thỏa thuận ký kết, đúng thẩm quyền, đúng mục đích vay tại thời điểm ký kết, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên hợp đồng hợp pháp và có hiệu lực.
Quá trình thực hiện hợp đồng ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N đã không thực hiện theo đúng cam kết của hợp đồng tín dụng mà ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N đã ký, không trả tiền lãi theo định kỳ như trong hợp đồng là vi phạm hợp đồng tín dụng, vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay được quy định tại điều 466 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần A buộc ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần A số tiền 596.624.446đ (trong đó gốc là 580.000.000đ, lãi trong hạn là 16.322630 và lãi quá hạn 301.836đ) tạm tính đến ngày 01/4/2022 và tiếp tục tính lãi từ ngày 02/4/2022 cho đến khi ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N trả xong cho Ngân hàng thương mại cổ A.
[3.2] Trường hợp ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng thương mại cổ phần A có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án bán đấu giá tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số QPH.BĐCN.274.121021 ngày 13/10/2021 giữa ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N với Ngân hàng thương mại cổ phần A.
[3.3] Trường hợp ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N trả nợ được cho Ngân hàng thì Ngân hàng thương mại cổ phần A có trách nhiệm trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 20, tờ bản đồ số 1, có diện tích 20.220m2 đất trồng cây lâu năm, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725176 do ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar cấp ngày 11/4/2014 cấp cho bà H D Niê đã chuyển nhượng trang 4 cho ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N ngày 23/3/2018, thửa đất tại địa chỉ xã Cư Đliê Mnông, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk.
[4] Về án phí dân sự và chi phí thẩm định:
[4.1] Về án phí: Do chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn nên ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định.
Ngân hàng thương mại cổ phần A được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[4.2] Về chi phí thẩm định: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N phải chịu chi phí thẩm định theo quy định.
Ngân hàng thương mại cổ phần A được nhận lại số tiền tạm ứng chi phí thẩm định của ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự;
Áp dụng Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Thông tư 12/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhà nước.
Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần A Buộc ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần A số tiền 596.624.466đ (trong đó gốc là 580.000.000đ, lãi trong hạn là 16.322630 và lãi quá hạn 301.836đ) tạm tính đến ngày 01/4/2022 và tiếp tục tính lãi từ ngày 02/4/2022 theo hợp đồng tín dụng số QPH.CN.3548.121021 ngày 14/10/2021 giữa ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N với Ngân hàng thương mại cổ phần A Trường hợp ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng thương mại cổ phần A có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xử lý, kê biên, bán đấu giá tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số QPH.BĐCN.274.121021 ngày 13/10/2021 giữa ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N với Ngân hàng thương mại cổ phần A đã ký kết, tài sản đảm bảo là:
Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền trên đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số 1, có diện tích 20.220m2 đất trồng cây lâu năm, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725176 do ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar cấp ngày 11/4/2014 cấp cho bà H D Niê đã chuyển nhượng trang 4 cho ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N ngày 23/3/2018, thửa đất tại địa chỉ xã Cư Đliê Mnông, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk.
Trường hợp ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N trả nợ được cho Ngân hàng thì Ngân hàng thương mại cổ phần A có trách nhiệm trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725176 do ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar cấp ngày 11/4/2014 cấp cho bà H D Niê đã chuyển nhượng trang 4 cho ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N ngày 23/3/2018.
Về án phí và chi phí thẩm định:
Về án phí: Ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N phải chịu 27.864.000đ (đã làm tròn) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ngân hàng ngân hàng thương mại cổ phần A được nhận lại số tiền 13.923.000đ đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 60AA/2021/0008178 ngày 05/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cư M’gar. (ông Vũ Văn Thắng là người trực tiếp nộp).
Về chi phí thẩm định: Ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Thị N có nghĩa vụ trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần A 4.000.000đ tiền chi phí thẩm định.
Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đồng bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
“Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật THADS; thời hiệu thi hành án được thực hiện quy định tại Điều 30 Luật THADS”.
Bản án 63/2022/DS-ST về tranh chấp hợp đồng vay tín dụng
Số hiệu: | 63/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về