Bản án 63/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 63/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 62/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lương Thị B. Tên gọi khác: không;

Sinh ngày 24/10/1989 tại xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An;

Nơi cư trú: Bản N Ó, xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An;

Nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn T và bà Lữ Thị M; Chồng Lữ Búa Th, sinh năm 1991, con có 01 con sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2020 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Võ Thị Hoài, trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Người chứng kiến: Anh Moong Văn Th, sinh năm 1999; Địa chỉ: Bản N T1, xã BN, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 14/12/2020, Lương Thị B đi bộ từ nhà của mình đến khu vực chăn bò tại bản N Ó, xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An thì gặp hai người đàn ông dân tộc Mông không quen biết. Sau khi nói chuyện và thỏa thuận với nhau, B đồng ý mua của hai người đàn ông này 01 (một) bao Potylen màu xanh bên trong có nhiều viên ma túy tổng hợp và 01 (một) gói heroine được gói bằng bao potylen màu trắng với số tiền là 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua được Lương Thị B cất giấu ma túy trong người và tiếp tục đi xem bò. Sau khi về nhà, Lương Thị B lấy 01 (một) viên ma túy tổng hợp ra sử dụng rồi lấy gói heroin ra chia thành 15 (mười lăm) gói được gói bằng giấy báo có chữ cất giấu cùng số viên ma túy tổng hợp trong một túi vải có séc kéo. Đến khoảng 20 giờ 30 phút ngày 16/12/2020, khi Lương Thị B đang đeo chiếc túi đựng ma túy ở trước bụng thì bị tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn phối hợp với ban Công an xã B Nam, HL, Bắc Lý, Nậm Cắn đang làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ số ma túy trên.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 10 giờ 00 phút ngày 17/12/2020 đã xác định: Số viên nén màu hồng (nghi là ma túy tổng hợp) thu giữ của Lương Thị B được gói bằng bao potylen màu xanh, sau khi loại bỏ bao bì có khối lượng là 4,15g (Bốn phẩy mười lăm gam) ký hiệu vật chứng số 01. Chất màu trắng (nghi là heroine) thu giữ của Lương Thị B được gói thành 15 (mười lăm) gói bằng giấy báo có chữ trong bao potylen màu trắng, sau khi loại bỏ bao bì có khối lượng là 0,2g (không phẩy hai gam), ký hiệu vật chứng số 02. Để có cơ sở kết luận Hội đồng đã trích: 03 (ba) viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,3g (không phẩy ba gam) từ vật chứng số 01, ký hiệu M1; 0,1g (không phẩy một gam) chất màu trắng từ vật chứng số 02, ký hiệu M2 thu giữ của Lương Thị B đóng gói niêm phong gửi đi giám định.

Tại kết luận giám định số 21/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 22/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M1) thu giữ của Lương Thị B gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Mẫu chất màu trắng (ký hiệu M2) thu giữ của Lương Thị B gửi tới giám định là ma túy (Heroine).

Cáo trạng số 26/CT-VKS-KS ngày 14/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã truy tố Lương Thị B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lương Thị B đã khai nhận hành vi của mình với các tình tiết như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, bị cáo Lương Thị B thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình nhằm mục đích để sử dụng.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Lương Thị B mức án từ 03 (Ba) năm đến 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư bưu điện được dán kín, ở mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và Lương Thị B, bên trong chứa 3,85g (ba phẩy tám mươi lăm gam) Methamphetamine và 0,1g (không phẩy một gam) Heroine cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo không tranh luận gì về tội danh và điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo lần đầu phạm tội, hiện nay hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn chồng bị cáo đã bỏ nhà đi, con bị cáo đang còn nhỏ và bị khuyết tật đang phải sống nhờ vào ông bà ngoại. Nên đề nghị áp dụng mức hình phạt thấp nhất của Viện kiểm sát đề nghị.

Tại phiên tòa, bị cáo Lương Thị B đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đã thừa nhận hành vi tàng trữ chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo không có tranh luận gì. Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo, người người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi vi phạm của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các chứng cứ tài liệu khác có tại hồ sơ nên đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 16/12/2020 tại khu vực bản Noọng Ó, xã HL, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn phối hợp với ban Công an xã B Nam, HL, Bắc Lý, Nậm Cắn phát hiện bắt quả tang Lương Thị B có hành vi tàng trữ trái phép 01 (Một) gói ma túy (Methamphetamine) có khối lượng là 4,15g (bốn phẩy mười lăm gam) và 15 (Mười lăm) gói ma túy (Heroine) có khối lượng là 0,2g (không phẩy hai gam) nhằm mục đích để sử dụng. Căn cứ hướng dẫn tại Điều 4 Chương 2 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì tổng khối lượng của hai chất ma tuý (Methamphetamine, heroine) thu giữ của Lương Thị B là: 4,15g + 0,2g = 4,35g, như vậy tổng khối lượng của hai chất ma tuý đó của bị cáo tương đương khối lượng ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện. Khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức ma túy là chất Nhà nước nghiêm cấm, vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế - xã hội cũng như sức khỏe con người và là mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, bị cáo là một người mẹ trong gia đình đáng lẽ phải làm gương để giáo dục con cái tránh xa các chất ma túy, mà bị cáo lại thiếu sự rèn luyện và đã nghiện ma túy, đồng thời bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép chất ma túy đã làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó cần áp dụng cho bị cáo một mức án tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới đủ điều kiện để cải tạo giáo dục riêng bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng thấy, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lần đầu phạm tội, bị cáo có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình nuôi con chưa thành niên và bị khuyết tật, vì vậy cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Hình phạt bổ sung: Thấy rằng bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, thu nhập chủ yếu từ nương rẫy nên miễn hình phạt tiền bổ sung cho bị cáo.

[5] Đối với đối tượng người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Lương Thị B, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch và địa chỉ Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽ được xử lý.

[6] Vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của Lương Thị B, sau khi đã trích gửi đi giám định thì số còn lại là 3,85g (Ba phẩy tám mươi lăm gam) methamphetamine và 0,1g (Không phẩy một gam) heroine, đây là vật chứng mà Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

 Về kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và mức hình phạt: Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lương Thị B: 03 (Ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 16/12/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư bưu điện được dán kín, ở mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và Lương Thị B, bên trong chứa 3,85g (ba phẩy tám mươi lăm gam) Methamphetamine và 0,1g (không phẩy một gam) Heroine thu giữ của bị cáo cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu (Đặc điểm, tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/3/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lương Thị B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tuyên bố: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;