Bản án 63/2021/HNGĐ-ST ngày 28/06/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 63/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 161/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 62/2021/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2021, giữa:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Như N - sinh năm 1992 Địa chỉ: Thôn L - xã H - thị xã N - Khánh Hòa.

Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Ông Lê Văn T - sinh năm 1991 Địa chỉ: Thôn Tiên Du 2 - xã P - thị xã N - Khánh Hòa.

Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 16/3/2021, biên bản lấy lời khai ngày 12/4/2021 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Như N trình bày: Bà và ông Lê Văn T tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, thị xã N năm 2013. Thời gian đầu vợ chồng sống có hạnh phúc nhưng đến năm 2018 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tính tình không hòa hợp nên không tìm được tiếng nói chung. Ông T không quan tâm chăm sóc vợ con và phụ giúp kinh tế gia đình. Mặc dù bà đã cố gắng chịu đựng nhưng ông T vẫn không khắc phục nên vợ chồng không thể hòa hợp được và đã không chung sống với nhau từ năm 2018 cho đến nay. Bà N xác định không còn tình cảm, vợ chồng không thể hàn gắn được nên yêu cầu ly hôn với ông T. Về con chung: vợ chồng có 01 con chung là Lê Nhật T - sinh ngày 22/6/2013, bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung không có.

Bị đơn ông Lê Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến tham gia giải quyết vụ án. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng đối với ông Lê Văn T theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng nguyên đơn đều thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; riêng bị đơn ông T không chấp hành theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Lê Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lí do nên đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông T theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Xét thấy quan hệ hôn nhân của bà N và ông T đã mâu thuẫn trầm trọng nên đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà N được ly hôn ông T theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Đề nghị giao con chung Lê Nhật T - sinh ngày 22/6/2013 cho bà N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà N không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

Về án phí: Bà N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng bị đơn ông Lê Văn T vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp về hôn nhân và gia đình giữa bà Nguyễn Thị Như N và ông Lê Văn T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã N, tỉnh Khánh Hòa theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Như N và ông Lê Văn T tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, thị xã N (giấy chứng nhận kết hôn số 16/2013 ngày 10/4/2013), đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống với nhau giữa bà N và ông T đã phát sinh mâu thuẫn kéo dài không được khắc phục, làm ảnh hưởng lớn đến tình cảm dẫn đến bà N không còn chung sống với ông T và yêu cầu ly hôn. Đối với ông Lê Văn T mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông không đến Tòa nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được, qua đó cũng chứng minh được ông T không còn tình cảm với bà N và không mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Tại phiên tòa, bà N vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với ông T. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa bà N và ông T đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà N là hoàn toàn phù hợp.

[4] Về con chung: Bà N và ông T có 01 con chung là Lê Nhật T - sinh ngày 22/6/2013. Bà N là người đang trực tiếp nuôi cháu Tâm và bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung; nguyện vọng của cháu Tâm muốn được sống cùng mẹ. Xét yêu cầu của bà N phù hợp với pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà N không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung và xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bà N phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;  Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị Như N được ly hôn ông Lê Văn T.

2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị Như N được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Lê Nhật T - sinh ngày 22/6/2013. Bà N không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Như N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ mà bà N đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0004945 ngày 23/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã N. Bà N đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Quy định : Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2021/HNGĐ-ST ngày 28/06/2021 về ly hôn

Số hiệu:63/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;