Bản án 63/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 63/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 192/2020/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2020/QĐXX - ST ngày 10 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Chị Trần Thị T - Sinh năm 1989 “ Có mặt”

Bị đơn: Anh Nguyễn Phú H - Sinh năm 1985 “ Có mặt”

Cùng địa chỉ: Thôn Q, xã L, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày:

Chị và anh Nguyễn Phú H kết hôn với nhau vào ngày 07 tháng 3 năm 2013 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian. Đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H thường xuyên chửi bới lăng mạ đánh đập chị, không chăm lo cuộc sống gia đình, do mâu thuẫn căng thẳng nên anh chị đã sống ly thân nhau từ tháng 3/2020 và mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, mâu thuẫn của vợ chồng đã được bạn bè và hai bên gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Nay chị T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Phú H.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Nguyễn Phú D, sinh ngày 19/7/2013 và cháu Nguyễn Hà P sinh ngày 03/5/2017. Chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng hai con, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 2.000.000đ/ tháng, hai cháu là 4.000.000đ/ tháng.

Nếu anh H cũng có nguyện vọng nuôi con thì chị T đồng ý giao cháu Nguyễn Hà P cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Phú D, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản công nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Phú Hòa trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn anh Hòa đồng ý như chị T trình bày. Anh Hòa cho rằng, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do cả hai bên không nhường nhịn nhau, đôi lúc không kiềm chế được anh có đánh chị T, hiện nay vợ chồng đã sống ly thân. Nay chị T có đơn xin ly hôn, tại bản tự khai ngày 02/6/2020 cũng như tại biên bản hòa giải ngày 04/6/2020, anh H xác định tình cảm giữa anh và chị T không còn nên anh đồng ý ly hôn.

Tuy nhiên tại biên bản hòa giải ngày 07/8/2020 cũng như tại phiên tòa, anh H cho rằng nếu chị T đồng ý giao cháu D cho anh trực tiếp nuôi dưỡng thì anh đồng ý ly hôn, còn nếu chị T không đồng ý giao cháu D cho anh nuôi dưỡng thì anh không đồng ý ly hôn.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Nguyễn Phú D, sinh ngày 19/7/2013, Nguyễn Hà P sinh ngày 03/5/2017. Tại biên bản hòa giải ngày 04/6/2020, anh H đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu D và P, yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.000.000đ/ tháng, hai cháu là 2.000.000đ/ tháng, còn nếu Tòa án giải quyết cho mỗi người nuôi 1 cháu thì không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Tại biên bản hòa giải ngày 07/8/2020, anh H đề nghị Tòa án giải quyết giao cháu D cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu P cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cáp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, công nợ: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Quá trình anh H và chị T sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể địa phương không nắm được, Nay chị T có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Về con: Chị T và anh H có 02 con chung, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng đề nghị Tòa án căn cứ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của đương sự, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định.

Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án giải quyết: Xử cho chị T được ly hôn anh H; Giao cháu D cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu P cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Trần Thị T và anh Nguyễn Phú H kết hôn với nhau năm 2013 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng đã sống ly thân, chị T tha thiết xin được ly hôn.

Qua xác minh tại địa phương thể hiện hiện: Trong quá trình anh H và chị T chung sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn và hiện nay anh chị đã sống ly thân.

Bản thân anh H cũng công nhận vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, anh H cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn, tuy nhiên lần hòa giải ngày 07/8/2020 cũng như tại phiên tòa, anh Hòa lại đưa ra điều kiện nếu chị T giao cháu D cho anh nuôi dưỡng thì anh đồng ý ly hôn, còn nếu chị T không đồng ý giao cháu D cho anh nuôi dưỡng thì anh không đồng ý ly hôn.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn giữa chị T và anh H đã đến mức trầm trọng, cả hai không còn tình cảm với nhau, việc anh H đưa ra điều kiện về thỏa thuận nuôi con mới đồng ý ly hôn là không phù hợp pháp luật, bởi tình cảm vợ chồng phải được thể hiện từ hai phía mà không phải bị ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện nào. Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “ Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Việc anh H đặt ra điều kiện ly hôn là không hợp lý. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 luật HN&GĐ xử cho chị T được ly hôn anh H là phù hợp pháp luật.

[3] Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Nguyễn Phú D, sinh ngày 19/7/2013 và cháu Nguyễn Hà P sinh ngày 03/5/2017. Chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng hai con, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 2.000.000đ/ tháng, hai cháu là 4.000.000đ/ tháng. Nếu anh H cũng có nguyện vọng nuôi con thì chị T đồng ý giao cháu Nguyễn Hà P cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Phú D, chị đề nghị Tòa án tôn trọng nguyện vọng được ở với mẹ của cháu D, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh H đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu D và P, yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.000.000đ/ tháng, hai cháu là 2.000.000đ/ tháng, còn nếu Tòa án giải quyết cho mỗi người nuôi 1 cháu thì không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Tại biên bản hòa giải ngày 07/8/2020, cũng như tại phiên tòa, anh H đề nghị Tòa án giải quyết giao cháu D cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu P cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cáp dưỡng nuôi con.

HĐXX xét thấy, cả anh H và chị T đều có mong muốn được nuôi con chung. Tuy nhiên, hiện cả hai anh chị đều có việc làm và thu nhập ổn định, do đó để đảm bảo cuộc sống cho các cháu nên cần giao mỗi người trực tiếp nuôi dưỡng một cháu là phù hợp pháp luật. Cháu Nguyễn Phú D có nguyện vọng được ở với mẹ, chị T đề nghị Tòa án tôn trọng nguyện vọng của cháu D. HĐXX xét thấy, cháu P cũng đã trên 36 tháng tuổi, cháu D có nguyện vọng ở với mẹ, nên cần giao cháu D cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu P cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về yêu cầu cấp dưỡng: Do cả chị T và anh H đều không yêu cầu cấp dưỡng. Mặt khác giao cho mỗi người nuôi một cháu, nên các bên không yêu cầu cấp dưỡng là phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[3] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật..

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Nguyễn Phú H.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn Phú D, sinh ngày 19/7/2013 và cháu Nguyễn Hà P sinh ngày 03/5/2017 là con chung của chị T và anh H. Giao cháu Nguyễn Phú D cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng;

Giao cháu Nguyễn Hà P cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Trần Thị T và anh Nguyễn Phú H có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí: Chị Trần Thị T phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp theo biên lai số AA/2018/0001017 ngày 19/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (Chị T đã nộp đủ án phí).

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:63/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;