Bản án 63/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 63/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 63/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lý Lở M - Sinh ngày 01/01/1964 tại huyện B, tỉnh Lào Cai. Nơi cư trú: Thôn C, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai. Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lý Díu S (Đã chết) và bà Tẩn Mùi N; Chồng là Vàng Dùn T; Bị cáo có 04 con, con lớn nhất sinh năm 1986, con nhỏ nhất sinh năm 1999; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/10/2019, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Bát Xát. “Có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cù Thúy Minh - Trợ giúp viên pháp lý trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai. “Có mặt”

- Người chứng kiến: Anh Lý Vần H

Nơi cư trú: Thôn C, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 31/10/2019, sau khi đi uống thuốc Methadone tại Trạm y tế xã Mường Hum, huyện Bát Xát về tới nhà thì Tẩn Lở Mẩy gặp chồng là Vàng Dùn T đang ở nhà. Khi Vàng Dùn T thấy Tẩn Lở Mẩy về liền hỏi “Mày đưa tiền cho tao để đi mua thuốc (tức mua hêrôin)”, nghe thấy vậy Tẩn Lở Mẩy liền lấy từ trong túi áo đang mặc ra 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng đưa cho Vàng Dùn T. Vàng Dùn T cầm tiền rồi đi bộ ra ngoài, Vàng Dùn T đi đâu, làm gì Tẩn Lở Mẩy không biết. Đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, khi Vàng Dùn T đi về thì Tẩn Lở Mẩy hỏi “Có mua được thuốc (tức hêrôin) không?” Vàng Dùn T liền lấy từ trong túi áo khoác ngoài bên phải ra 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong có 01 (một) gói nilon màu hồng và 01 (một) gói nilon màu xanh. Sau đó, Vàng Dùn T và Lý Lở M lấy một ít ma túy từ trong gói nilon màu xanh ra để sử dụng bằng hình thức hít, sử dụng xong cả hai cùng lên giường đi ngủ. Khoảng 17 giờ 50 phút cùng ngày, Vàng Dùn T ngủ dậy và đưa số ma túy còn lại chưa sử dụng cho Lý Lở M và bảo đi lên rừng bẫy thú, Lý Lở M cầm ma túy trong lòng bàn tay phải còn Vàng Dùn T đi bộ ra khỏi nhà, đúng lúc đó thì bị tổ công tác Công an huyện Bát Xát đang làm nhiệm vụ tại thôn Cán Tỷ, xã Bản Xèo phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Lý Lở M 01 gói nilon màu trắng bên trong có 01 gói nilon màu hồng và 01 gói nilon màu xanh, trong cả 02 (hai) gói đều có chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục, Lý Lở M khai nhận là hêrôin do Vàng Dùn T đi mua về để hai vợ chồng sử dụng chung.

Ngày 01/11/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bát Xát ra quyết định trưng cầu giám định về ma túy số 85 đối với chất bột khô màu trắng vón cục thu giữ của Lý Lở M ngày 31/10/2019.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định giữa Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bát Xát ngày 01/11/2019 đã xác định: 01 gói nilon màu trắng, bên trong có 01 gói nilon màu xanh và 01 gói nilon màu hồng, trong cả 02 gói đều có chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục thu giữ của Lý Lở M ngày 31/10/2019 có tổng khối lượng là 0,84 gam. Trích mẫu giám định 0,21 gam từ 0,84 gam để tiến hành giám định, còn lại 0,63 gam hoàn trả lại cơ quan trưng cầu.

Tại Kết luận giám định số 240/GĐMT ngày 04/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai Kết luận: 0,84 gam chất bột khô, màu trắng, vón cục gửi đến giám định là loại chất ma túy Heroine (Hêrôin).

Cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 18/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát truy tố bị cáo Lý Lở M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lý Lở M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lý Lở M về tội danh theo bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Lý Lở M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo với mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù. Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,63 gam ma túy còn lại sau giám định.

Tuyên án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà người bào chữa cho bị cáo Lý Lở M trình bày: Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát truy tố bị cáo Lý Lở M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo Lý Lở M là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật hạn chế, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cho bị cáo được hưởng mức án 01 năm tù. Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo không có tài sản riêng, bản thân nghiện chất ma túy vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bát Xát, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Lý Lở M: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, tang vật thu giữ và kết luận giám định. Lý Lở M là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết xã hội và pháp luật, nhận thức được tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vào ngày 31/10/2019 Lý Lở M đã đưa cho chồng là Vàng Dùn T số tiền 600.000 đồng để mua ma túy về mục đích để cùng nhau sử dụng chung. Lý Lở M và Vàng Dùn T đã sử dụng một ít ma túy trong số ma túy vừa mua được. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, khi Vàng Dùn T vừa đưa số ma túy còn lại cho Lý Lở M cầm và đi ra khỏi nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Bát Xát phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật. Theo kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, số ma túy thu giữ được của bị cáo Lý Lở M có tổng khối lượng là 0,84 gam chất ma túy Hêrôin. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lý Lở M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo Lý Lở M là đối tượng nghiện chất ma túy, đang được điều trị bằng biện pháp uống Methadone, tuy nhiên bị cáo đã không tu trí rèn luyện bản thân để trở thành một công dân tốt, có ích cho xã hội mà vẫn cố ý tiếp tục tìm mua ma túy về để sử dụng. Vì vậy cần phải xét xử một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.

Theo lời khai của Lý Lở M, ngày 31/10/2019, Lý Lở M đưa 600.000 đồng cho Vàng Dùn T để đi mua ma túy về sử dụng chung, việc Vàng Dùn T đi mua ma túy ở đâu, của ai Lý Lở M không biết. Vì vậy Cơ quan điều tra không chứng minh làm rõ được nên không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với Vàng Dùn T quá trình điều tra đã xác minh hiện Vàng Dùn T không có mặt tai địa phương, không biết Vàng Dùn T đang ở đâu. Vì vậy, Cơ quan điều tra chưa chứng minh làm rõ được, khi nào xác minh làm rõ sẽ xử lý sau xét thấy là phù hợp.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lý Lở M đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, vì vậy cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Đối với đề nghị của người bào chữa cho bị cáo, xét xử bị cáo Lý Lở M mức án 01 năm tù không được chấp nhận, bởi lẽ bị cáo Lý Lở M là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết pháp luật, bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, bị cáo là đối tượng thường xuyên sử dụng chất ma túy, số ma túy thu giữ được của bị cáo Tẩn Lở Mẩy có tổng khối lượng là 0,84 gam chất ma túy Hêrôin. Vì vậy mức hình phạt đối với bị cáo như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, bị cáo là người lao động tự do, không có việc làm ổn định, là đối tượng nghiện ma túy nên không có tài sản và thu nhập gì. Vì vậy không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo 0,84 gam ma túy, sau khi trích mẫu giám định số ma túy còn lại là 0,63 gam đã được tái niêm phong theo quy định cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lý Lở M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lý Lở M 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/10/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,63 gam Hêrôin còn lại sau trích mẫu giám định được tái niêm phong theo quy định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai có đặc điểm như sau: 01 bì thư tái niêm phong bên trong có mẫu M1: 0,04 (không phẩy không bốn) gam Hêrôin và mẫu M2: 0,59 (không phẩy năm mươi chín) gam Hêrôin còn lại sau trích mẫu giám định. Trên một mặt bì niêm phong có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ của Lý Lở M ngày 31 tháng 10 năm 2019 tại thôn Cán Tỷ, xã Bản Xèo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”.

(Vật chứng thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18 tháng 11 năm 2019 giữa Công an huyện Bát Xát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bát Xát).

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lý Lở M phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;