Bản án 63/2019/HS-PT ngày 26/11/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 63/2019/HS-PT NGÀY 26/11/2019  VỀ TỘI ĐÁNH BẠC   

 Trong ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 58/2019/TLPT-HS ngày 25/9/2019 đối với các bị cáo Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 14/2019/HSST ngày 13/08/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Tấn C (tên gọi khác: S), sinh ngày 10/8/1966 tại huyện H, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: thôn V, xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: đi biển; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn T (chết) và bà Huỳnh Thị M (chết); có vợ tên là Nghiêm Thị Thanh H và có 01 con sinh năm 1988; tiền án: bị cáo có 01 tiền án về tội “Đánh bạc” chưa được xóa án tích; tiền sự: không; nhân thân: năm 2014, bị cáo bị Toà án nhân dân huyện H, Bình Định xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Năm 2015, bị Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép” với số tiền 1.500.000 đồng, bị cáo đã nộp phạt xong; bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên tòa;

2. Trần Thị Kim B, sinh ngày 01/9/1968 tại huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn V, xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 09/12; giới tính: nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đ (chết) và con bà Nguyễn Thị T (chết); bị cáo chưa có chồng và có 01 con sinh năm 1991; tiền án: năm 2014, bị Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc” nhưng chưa được xóa án tích; tiền sự: không; nhân thân: năm 2015 và năm 2016, bị cáo bị Công an huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép”, bị cáo đã chấp hành và nộp phạt xong; bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 9 giờ ngày 17/02/2019 (nhằm ngày 13/01/2019 âm lịch), Nguyễn Tấn C đem bộ dụng cụ xóc bầu cua đến khu vực đất trống thuộc khu dân cư số X, thôn V, xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi (đây là khu vực thường tập trung dân cư của thôn chơi bi sắt vào dịp tết) để đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức xóc bầu cua. Đến khoảng 9 giờ 30 phút cùng ngày, thì có một số người đến tham gia đánh bầu cua với bị cáo Nguyễn Tấn C, đặt cược thắng, thua bằng tiền. Mỗi ván từ 5 đến 7 người chơi, với số tiền đặt của mỗi người từ 20.000 đồng đến 200.000 đồng (số tiền dao động dưới sòng bầu cua từ khoảng 200.000 đồng đến 500.000 đồng mỗi ván). Trên sòng bầu cua còn có bị cáo Trần Thị Kim B cũng đến tham gia đánh bầu cua ăn theo nhà cái, với số tiền mỗi ván đánh bạc là 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng). Quá trình đánh bạc diễn ra đến 12 giờ 30 phút cùng ngày thì Công an huyện Đ bắt quả tang và lập biên bản những người tham gia đánh bạc gồm bị cáo Nguyễn Tấn C, bị cáo Trần Thị Kim B, cùng các đối tượng Lê Văn H, Huỳnh Văn C, Trần Ngọc Q và Phan Duy N đều trú tại thôn V, xã P, huyện Đ. Ngoài ra, còn có một số người khác bỏ chạy khỏi hiện trường (không xác định được nhân thân, lai lịch).

Tạm giữ vật chứng:

- 01 (một) bộ dụng cụ xóc bầu cua gồm ba hột bầu cua hình lập phương có hình linh vật bầu, cua, tôm, cá, gà, nai; một cái thau bằng kim loại màu trắng bạc; một cái đĩa bằng kim loại màu trắng bạc; một tấm ni lông có hình linh vật bầu, cua, tôm, cá, gà, nai; 01 (một) tấm bạt ni lông màu xanh, KT (1,5x2) m.

- Số tiền 16.180.000 đồng (mười sáu triệu một trăm tám mươi nghìn đồng), trong đó có 80.000 đồng là tiền dưới chiếu bạc (của những người tham gia đánh bạc bỏ chạy) và số tiền 16.100.000 đồng là của bị cáo Nguyễn Tấn C.

- Số tiền 2.100.000 đồng (hai triệu một trăm nghìn đồng) của bị cáo Trần Thị Kim B, 2.100.000 đồng (hai triệu một trăm nghìn đồng) của Lê Văn H, 6.025.000 đồng (sáu triệu không trăm hai mươi lăm nghìn đồng) của Huỳnh Văn C, 8.500.000 đồng (tám triệu năm trăm nghìn đồng) của Phan Duy N, 1.400.000 đồng (một triệu bốn trăm nghìn đồng) của Trần Ngọc Q, 2.900.000 đồng (hai triệu chín trăm nghìn đồng) của Trần Thanh N.

Quá trình điều tra có đủ căn cứ xác định, số tiền mà bị cáo Nguyễn Tấn C dùng để đánh bạc là 5.400.000 đồng (sau khi thắng là 6.100.000 đồng); số tiền bị cáo Trần Thị Kim B dùng để đánh bạc là 2.100.000 đồng; số tiền Lê Văn H dùng để đánh bạc là 1.000.000 đồng (sau khi thắng là 2.100.000 đồng); số tiền Huỳnh Văn C dùng để đánh bạc là 1.000.000 đồng (sau khi thua còn 600.000 đồng); số tiền Phan Duy N dùng để đánh bạc là 200.000 đồng (sau khi thắng là 1.700.000 đồng); số tiền Trần Ngọc Q dùng để đánh bạc là 600.000 đồng. Như vậy, số tiền đánh bạc của bị cáo Nguyễn Tấn C trong vụ án (được tính là tổng số tiền đánh bạc của bị cáo Cưng, số tiền dưới chiếu bạc và số tiền tạm giữ của những người tham gia đánh bạc sử dụng vào mục đích đánh bạc, không tính số tiền của bị cáo B) là 10.580.000 đồng.

Đối với bị cáo Trần Thị Kim B: mặc dù số tiền đánh bạc là 2.100.000 đồng nhưng trước đó vào ngày 16/8/2014, bị cáo Trần Thị Kim B bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định tuyên phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng. Qua xác minh tại Chi cục THADS huyện H và Chi cục THADS huyện Đ thì đến ngày 17/02/2019 bị cáo Trần Thị Kim B chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm nên hành vi đánh bạc lần này của bị cáo Trần Thị Kim B đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2019/HS-ST ngày 13/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi quyết định:

Tuyên bố: Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B phạm tội “Đánh bạc”.

1. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn C 09 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 32, khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Tấn C 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng) 2. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Kim B 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 32, khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Phạt bổ sung bị cáo Trần Thị Kim B 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 22/8/2019, các bị cáo Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo và không áp dụng hình phạt bổ sung.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Tại phần kết luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đề nghị: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 14/2019/HS-ST ngày 13/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Bản án sơ thẩm đã tuyên xử. Lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 17/02/2019, các bị cáo Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B cùng một số đối tượng khác thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức xóc bầu cua thắng thua bằng tiền tại khu dân cư số X, thôn V, xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi. Trong lúc đang đánh bạc thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ bắt quả tang và tạm giữ, trong đó, tổng số tiền mà bị cáo Nguyễn Tấn C dùng để đánh bạc được thu giữ tại chiếu bạc là 10.580.000 đồng, số tiền mà bị cáo Trần Thị Kim B dùng để đánh bạc là 2.100.000 đồng (bị cáo B đã có 01 tiền án về tội “Đánh bạc” nhưng chưa được xóa án tích). Do đó, Tòa án sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn C và bị cáo Trần Thị Kim B, thì thấy:

Khi quyết định hình phạt cho các bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội; nhân thân của các bị cáo; áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Tấn C có thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự tại Đồn biên phòng đảo N, thành phố Q và có mẹ là cụ Huỳnh Thị M là người có công với Cách mạng, được phong tặng huân chương kháng chiến hạng nhất là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 được áp dụng thêm cho bị cáo.

Xét về nhân thân bị cáo Nguyễn Tấn C đã có 01 tiền án về tội “Đánh bạc” chưa được xóa án tích; năm 2015, bị Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép” với số tiền 1.500.000 đồng. Đối với bị cáo Trần Thị Kim B đã có 01 tiền án về tội “Đánh bạc” chưa được xóa án tích; năm 2015 và năm 2016, bị Công an huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép”. Việc thực hiện hành vi đánh bạc nhiều lần của các bị cáo đã thể hiện ý thức coi thường pháp luật nên cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Tấn C 09 tháng tù, xử phạt bổ sung 15.000.000 đồng; Trần Thị Kim B 06 tháng tù xử phạt bổ sung 10.000.000 đồng là phù hợp, không nặng.

Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới để Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo và xin không áp dụng hình phạt bổ sung của các bị cáo Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B. Giữ nguyên mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã xét xử để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Do không có căn cứ chấp nhận kháng cáo, nên các bị cáo Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 14/2019/HS-ST ngày 13/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn C 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 32, khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Tấn C 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng) - Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Kim B 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 32, khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Phạt bổ sung bị cáo Trần Thị Kim B 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

2. Các bị cáo Nguyễn Tấn C, Trần Thị Kim B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2019/HS-PT ngày 26/11/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:63/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;