TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 63/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ M VÀ ANH B
Trong ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 127/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2019 về việc tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 85/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Dương Thúy M, sinh năm 1985
Địa chỉ: Ấp m, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).
2. Bị đơn: Anh Ngô Hải B, sinh năm 1982
Địa chỉ: Ấp m, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án chị Dương Thúy M trình bày như sau:
Chị M và anh B kết hôn với nhau vào năm 2008 hôn nhân tự nguyện được gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương, đến ngày 15/5/2009 anh chị đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang.
Vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn từ năm 2017, nguyên nhân mâu thuẫn do anh B thường xuyên tham gia vào các tệ nạn xã hội như đá gà, đánh bài khiến gia đình lâm vào cảnh nợ nần đến mức phải bán đất để trả nợ cho anh B. Vợ chồng cùng nhau đi Bình Dương làm công nhân để mong anh B thay đổi tập trung lo làm kinh tế gia đình nhưng anh B vẫn tiếp tục bài bạc và còn thừa nhận có quan hệ ngoại tình với phụ nữ khác và không còn muốn chung sống với chị M. Khi chị M khuyên ngăn thì vợ chồng xảy ra cự cãi thậm chí anh B còn đánh chị gây thương tích. Hiện nay vợ chồng đã ly thân với nhau khoảng 06 tháng và không ai còn quan tâm đến ai. Nhận thấy vợ chồng không thể tiếp tục chung sống cùng nhau nên chị M xin ly hôn với anh B.
Về con chung: Chị Muội xác định vợ chồng có hai con chung là cháu Ngô Thảo A, sinh ngày 30/01/2010 và cháu Ngô Thảo N, sinh ngày 19/01/2013. Chị M có nguyện vọng được nuôi con chung sau khi vợ chồng ly hôn và không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Chị M xác định không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay chị M tiếp tục xin ly hôn với anh B, xin được quyền nuôi con mà không yêu cầu chồng cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng chị M xác định không có yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa - bị đơn anh Ngô Hải B vắng mặt và không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu xin ly hôn của chị M.
Ý kiến trình bày của các con chung: Cháu Ngô Thảo A có nguyện vọng được sống với mẹ sau khi cha mẹ ly hôn.
Chứng cứ nguyên đơn cung cấp: Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao khai sinh của cháu Ngô Thảo A và Ngô Thảo N; giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu cuả nguyên đơn (Bản công chứng). Bị đơn không cung cấp chứng cứ.
Kết quả xác minh từ chính quyền địa phương cho biết: Vợ chồng chị M và anh B xảy ra nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do anh B tham gia các tệ nạn xã hội đá gà, đánh bài làm cho kinh tế gia đình lâm vào cản nợ nần phải bán đất để trả nợ. Trong cuộc sống hàng ngày vợ chồng thường xảy ra cự cãi. Hiện tại mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn và đã sống ly thân. Sau khi vợ chồng ly thân con sống với mẹ có cuộc sống ổn định và phát triển bình thường. Hiện tại chị M đi làm thuê tại địa phương, thu nhập ổn định và có đủ khả năng để nuôi con chung.
Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng (Nguyên đơn) đảm bảo đúng theo quy định, đề nghị áp dụng Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.
Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị M được ly hôn với anh B; đề nghị áp dụng Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao con chung cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị M không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và nợ chung không có yêu cầu nên không giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn, bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện A. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.
Tại phiên tòa anh B đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử thống nhất xét xử vắng mặt anh B.
[2] Về nội dung vụ án:
Quan hệ pháp luật: Chị M xin ly hôn và yêu cầu giải quyết vấn đề con chung nên quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
Chị M và anh B chung sống với nhau có thực hiện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang theo quy định của pháp luật, do đó hôn nhân của anh chị là hợp pháp.
Xét yêu cầu xin ly hôn của chị M, Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án mặc dù được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh B vắng mặt đồng thời không gửi văn bản nêu ý kiến trước yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị M. Qua lời trình bày của chị M và kết quả xác minh từ địa phương được biết đời sống vợ chồng giữa chị M và anh B đã xảy ra mâu thuẫn do anh B không tu chí làm ăn mà tham gia vào các tệ nạn xã hội như đá gà, đánh bài khiến gia đình lâm vào cảnh nợ nần, chị M khuyên can thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Ngoài ra anh B còn có hành vi bạo hành đánh đập vợ. Hiện vợ chồng đã ly thân. Tòa án đã mở phiên hòa giải để hòa giải đoàn tụ nhưng anh B không chấp hành theo giấy mời, không thể hiện thiện chí hàn gắn hôn nhân. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị M đều xin được ly hôn. Từ đó có cơ sở để nhận định mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu của chị M, cho chị M được ly hôn với anh B.
Về con chung: Anh chị có hai người con chung, chị M có nguyện vọng được nuôi các con chung và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Cháu Ngô Thảo A có nguyện vọng được sống chung với mẹ khi cha mẹ ly hôn.
Qua kết quả xác minh, cho thấy: Sau khi ly thân các con chung ở với chị M, trong thời gian nuôi dưỡng con chị M đã đảm bảo cho các con có cuộc sống ổn định và phát triển bình thường, hiện nay chị đi làm thuê có thu nhập ổn định có đủ khả năng để nuôi dạy con. Do đó, qua thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của chị M, thống nhất giao cháu Ngô Thảo A và cháu Ngô Thảo N cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con, ghi nhận sự tự nguyện của chị M về việc không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Các đương sự không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ Điều 144 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị M là nguyên đơn chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.
[4] Về ý kiến phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề nghị hướng giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát huyện An Biên tại phiên tòa là có cơ sở và căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử đã xem xét và ghi nhận trong quá trình giải quyết vụ án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia và đình năm 2014;
- Áp dụng vào khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Dương Thúy M và anh Ngô Hải B.
2. Về quan hệ con chung: Giao cháu Ngô Thảo A, sinh ngày 30/01/2010 và cháu Ngô Bảo N, sinh ngày 19/01/2013 cho chị Dương Thúy M nuôi dưỡng sau khi vợ chồng ly hôn.
Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Dương Thúy M về việc không yêu cầu anh Ngô Hải B phải cấp dưỡng nuôi các con chung.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền đến thăm nom và chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Khi cần thiết anh chị có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Các đương sự không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Dương Thúy M có nghĩa vụ nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0001734 ngày 17/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Kiên Giang. Chị Dương Thúy M đã nộp đủ án phí.
5. Báo quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 29/10/2019). Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
"Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự".
Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 29/10/2019 về ly hôn giữa chị M và anh B
Số hiệu: | 63/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về