Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 12/09/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 63/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 210/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2019, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2019 và và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Trần Hữu T, sinh năm 1984

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp Hậu Ph 3, xã Hậu Mỹ B A, huyện C, tỉnh G; chỗ ở: Số nhà 3385B, Tổ 10, K 6, phường N, thành phố B, tỉnh T.

Bị đơn: Chị Võ Thị H, sinh năm: 1992

Địa chỉ: Số nhà 3993, Tổ 7, Ấp L 1, xã S, huyện P, tỉnh N

(Anh T đề nghị xét xử vắng mặt; chị H vắng mặt không rõ lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/4/2019, lời khai trong quá trình chuẩn bị xét xử nguyên đơn anh Trần Hữu T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị H tự nguyện tìm hiểu và tiến đến hôn nhân năm 2015, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Mađaguôi, huyện Đạ Houai, tỉnh Lâm Đồng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 11/6/2015, số 44/2015, quyển số 01.

Đời sống hôn nhân của vợ chồng anh hạnh phúc được đến tháng 10/2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, thường hay cãi vã nhau, sau đó chị H tự ý bỏ về nhà bố mẹ ruột ở địa chỉ: Ấp L 1, xã S, huyện P, tỉnh N sinh sống và làm việc, cũng từ tháng 10/2015 cho đến nay anh và chị H đã không còn sống chung với nhau. Trong thời gian vợ chồng không sống chung thì không ai liên lạc với ai, vợ chồng không còn quan T, chăm sóc cho nhau, nên vào tháng 10/2017 anh đã từng nộp đơn xin ly hôn với chị H tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú. Tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án, chị H không hợp tác, hơn nữa anh cũng mong muốn vợ chồng được về đoàn tụ gia đình. Do đó, anh đã tự nguyện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Nay anh T nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn nên anh T xin giữ nguyên yêu cầu ly hôn với chị Võ Thị H.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Về nợ chung: Theo anh T, vợ chồng không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Võ Thị H mặc dù được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng trong quá trình chuẩn bị xét xử không có ý kiến, đồng thời vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai.

Để chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình, nguyên đơn đã nộp kèm theo đơn khởi kiện những tài liệu chứng cứ sau: Giấy chứng minh nhân dân (bản sao); sổ hộ khẩu của gia đình (bản sao); giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); lời khai của nguyên đơn tại bản tự khai; đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp Tòa án đã tiến hành sao gửi hợp lệ cho bị đơn.

Để giải quyết vụ án, theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án đã tiến hành thu thập những tài liệu, chứng cứ sau: Các biên bản xác minh ngày 21/6/2019 về tình trạng hôn nhân của các đương sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như sau:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Bị đơn chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận cho anh T được ly hôn với chị Võ Thị H; về con chung: Không có con chung, không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét. Về nợ chung: Anh T khai không có, nên không xem xét; đối với chị Võ Thị H nếu có yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Hữu T khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị Võ Thị H. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết trong vụ án này được xác định là “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chị Võ Thị H có nơi cư trú tại xã Phú Sơn, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn anh Trần Hữu T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; chị Võ Thị H là bị đơn, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa anh T, chị H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Mađaguôi, huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 11/6/2015, vào sổ số 44/2015, quyển số 01, do đó đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.

[4] Đời sống hôn nhân của vợ chồng anh T, chị H đầm ấm, hạnh phúc đến tháng 10/2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không có tiếng nói chung, không thông cảm và chia sẻ cho nhau những vấn đề trong cuộc sống. Từ tháng 10/2015 đến nay, anh T và chị H đã không còn không sống chung, vợ chồng không ai quan T đến ai, không còn thực hiện quyền và nghĩa vụ chung của vợ chồng.

[5] Đối với bị đơn chị Võ Thị H, qua xác minh tại địa phương nơi bị đơn cư trú, xác định chị H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương, vẫn đang sinh sống và thường xuyên có mặt tại địa chỉ như nguyên đơn cung cấp nhưng cố tính trốn tránh. Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và các văn bản tố tụng khác (Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử) cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn không đến Tòa án làm việc, không cung cấp văn bản trình bày ý kiến, không cung cấp tài liệu, chứng cứ, tự từ bỏ quyền của đương sự. Mặt khác, điều này cũng thể hiện chị H không có thiện chí để hòa giải đoàn tụ gia đình với anh T.

[6] Từ những lý do nêu trên, xác định được anh T, chị H trong quá trình sống chung đã không còn thương yêu, tôn trọng, quan T, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình; làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình thì yêu cầu ly hôn của anh T đối với chị H là có cơ sở.

[7] Về con chung: Vợ chồng không có con chung, nên không xem xét giải quyết.

[8] Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Anh T khai không có, nên không xem xét; đối với chị H nếu có yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung đối với anh T thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

[9] Về án phí: Anh T là nguyên đơn trong vụ án ly hôn, do đó anh T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, theo quy định tại khoản 4 Điều 147, và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[10] Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 235 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 19, 51, 56 của Luật Hôn nhân Gia đình;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Hữu T về việc “Ly hôn” đối với chị Võ Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Trần Hữu T và chị Võ Thị H.

2. Về con chung: Không có, nên không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung, anh T khai không có, nên không xem xét, giải quyết. Dành quyền khởi kiện về chia tài sản chung, nợ chung của vợ chồng bằng vụ án khác cho chị Võ Thị H nếu chị H có yêu cầu.

4. Về án phí: Anh Trần Hữu T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh T đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số 005502 ngày 13/5/2019 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai chuyển thành án phí. Anh T đã nộp đủ án phí.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

5. Về quyền kháng cáo: Anh T, chị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 12/09/2019 về ly hôn

Số hiệu:63/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;