TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 78/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/02/2018 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH T
Ngày 18/7/2018, tại trụ sở TAND huyện L tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 76/2018/TLST-HNGĐ ngày 06/3/2018, về việc: Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2018/QĐXXST-DS ngày 14/5/2018, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1996;
Sinh quán: Thôn Đ, xã L, huyện L, tỉnh Bắc Giang;
Trú quán: Thôn T, xã D, huyện L, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).
Bị đơn: Anh Ngô Văn T, sinh năm 1985;
Địa chỉ: Thôn T, xã D, huyện L, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ghi ngày 21/02/2018 và các lời khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Ngô Văn T kết hôn ngày 14/01/2014, tại UBND xã D, huyện L. Trước khi kết hôn hai bên có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau trên cơ sở hợp pháp. Sau lễ cưới chị có về gia đình anh T làm dâu. Vợ chồng chung sống, hòa thuận hạnh phúc được khoảng thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống và làm kinh tế gia đình nên chị bỏ về nhà mẹ đẻ sống ly thân từ tháng 10 năm 2016 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm và thương yêu nhau nữa. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và không thể đoàn tụ được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ngô Văn T.
Về con chung, vợ chồng chưa có. Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác vợ chồng không có gì vướng mắc nên chị không yêu cầu Tòa án đặt ra xem xét, giải quyết.
Vì lý do bận công việc nên chị Nguyễn Thị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị H vắng mặt.
Anh Ngô Văn T là bị đơn có địa chỉ tại thôn T, xã D, huyện L, tỉnh Bắc Giang đã được Tòa án giao, tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng hết thời hạn được quy định anh T không có ý kiến, quan điểm và chứng cứ cung cấp, giao nộp cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Tại phiên tòa, anh Ngô Văn T vắng mặt.
Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký Tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng, tại phiên tòa Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51 và Điều 56 Luật HNGĐ xử: Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Ngô Văn T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:
[1] . Về tố tụng: Ngày 14/5/2018, Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập phiên tòa cho các đương sự để mở phiên tòa xét xử vào 07 giờ 30’ ngày 31/5/2018 theo đúng quy định của pháp luật. Do anh Ngô Văn T vắng mặt lần thứ nhất nên Tòa án đã hoãn phiên tòa và ấn định mở phiên tòa xét xử lần hai vào 07h30’ ngày 29/6/2018. Tại phiên tòa ngày 29/6/2018, do chị Nguyễn Thị H vắng mặt nên Tòa án đã có quyết định hoãn phiên tòa và ấn định thời gian mở lại phiên tòa xét xử lần thứ ba vào 07h 30’ ngày 18/7/2018. Tòa án đã tiến hành tống đạt, đã triệu tập hợp lệ các đương sự nhưng anh Ngô Văn T vẫn vắng mặt, còn chị Nguyễn Thị H vì lý do công việc bận nên có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 BLTTDS, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.
[2] . Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị H và anh Ngô Văn T kết hôn ngày 14/01/2014, tại UBND xã D, huyện L. Trước khi kết hôn hai bên có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau trên cơ sở hợp pháp. Sau lễ cưới chị H có về gia đình anh T làm dâu. Vợ chồng chung sống, hòa thuận hạnh phúc được khoảng thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống, sinh hoạt và làm kinh tế gia đình nên chị H đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống ly thân từ tháng 10 năm 2016 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm và thương yêu nhau nữa. Chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và không thể đoàn tụ được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ngô Văn T.
Xét thấy, cuộc sống chung vợ chồng chị H và anh T đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy nguyện vọng xin được ly hôn của chị H là chính đáng, là có cơ sở và phù hợp với quy định Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên cần được HĐXX xem xét, chấp nhận.
[3] . Về con chung, tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Vợ chồng không có gì vướng mắc nên các đương sự không đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết. Căn cứ vào Điều 5 của BLTTDS, HĐXX không đặt ra xem xét, giải quyết.
[4] . Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm ly hôn. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 51, 56 và Điều 57 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, 147, 227, 228, 238, 271, 272 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
1. Về quan hệ vợ chồng: Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Ngô Văn T.
2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu số 0003040 ngày 06/3/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện L.
Báo cho các đương sự vắng mặt tại phiên tòa biết, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết công khai bản án hợp lệ.
Bản án 63/2018/HNGĐ-ST ngày 18/07/2018 về ly hôn giữa chị H và anh T
Số hiệu: | 63/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/07/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về