TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 63/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 18 tháng 4 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 36/2018/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 05/4/2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lương Thị C, sinh năm: 1983; địa chỉ: Xóm Y, xã TH, huyện TC, tỉnh NA. Có mặt.
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1985; địa chỉ: Xóm M, xã TH, huyện TC, tỉnh NA.Vắng mặt.( Có đơn xin đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 02/3/2018, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa nguyên đơn chị Lương Thị C trình bày như sau: Chị và anh Nguyễn Văn C kết hôn với nhau vào ngày 07/11/2008 do hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện TC, tỉnh NA.Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, anh C thường xuyên rượu chè, đánh đập chị. Vợ chồng đã sống ly thân từ đầu tháng 10/2016 cho đến nay.Tình cảm vợ chồng là không còn nữa chị đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Nguyễn Văn C.
Về nuôi con chung:Vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Thị Thùy T, sinh ngày 13/01/2011và Nguyễn Văn Thế Q, sinh ngày 13/9/2009, cả hai người con ở với chị từ nhỏ đến nay, vợ chồng ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cả hai người con và không yêu cầu anh Nguyễn Văn C cấp dưỡng nuôi con.
Về chia tài sản và nợ: Chị Lương Thị C không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ý kiến của bị đơn: Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 29/3/2018 anh
Nguyễn Văn C có ý kiến như sau:
Về quan hệ hôn nhân: Anh không đồng ý ly hôn với chị Lương Thị C.
Về nuôi con chung:Vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Thị Thùy T, sinh ngày 13/01/2011và Nguyễn Văn Thế Q, sinh ngày 13/9/2009,trường hợp vợ chồng ly hôn thì anh có nguyện vọng nuôi con chung là Nguyễn Văn Thế Q, sinh ngày 13/9/2009.
Về chia tài sản và nợ: Anh Nguyễn Văn C không yêu cầu Tòa án giải quyết. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong qúa trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật, bị đơn không đến Tòa án tham gia phiên họp, hòa giải theo thông báo của Tòa án.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Về hôn nhân: Xử cho chị Lương Thị C được ly hôn anh Nguyễn Văn C.
Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Thùy T, sinh ngày 13/01/2011 cho chị Lương Thị C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.Giao con chung là Nguyễn Văn Thế Q, sinh ngày 13/9/2009 cho anh Nguyễn Văn C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn C không ai phải cấp dưỡng nuôi con.
Về chia tài sản và nợ: Chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn C không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
Về án phí: Chị Lương Thị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Đây là trường hợp Tòa án không tiến hành hòa giải được vì bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt được quy định tại khoản 1 Điều 207 của bộ luật tố tụng hình sự.Tại phiên tòa bị đơn vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]Về nội dung vụ án: Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn C là hợp pháp, được xác lập trên cở sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện TC, tỉnh NA vào ngày 07/11/2008. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc và thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, anh C rượu chè rồi về đánh đập chị C. Mâu thuẫn trầm trọng nhất là vào tháng 10 năm 2016 và hai bên đã sống ly thân cho đến nay. Chị Lương Thị C xin ly hôn thì anh Nguyễn Văn C không đồng ý. Xét thấy anh Nguyễn Văn C đã được Tòa triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh không đến Tòa án để làm việc, điều đó chứng tỏ anh không có thiện chí trong việc hàn gắn lại quan hệ hôn nhân đã rạn nứt. Hội đồng xét xử xét thấy về quan hệ hôn nhân giữa chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn C chỉ tồn tại về mặt hình thức, thực chất tình trạng hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị C, xử cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn C là đúng với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3]Về nuôi con chung:Vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Thị Thùy T, sinh ngày 13/01/2011và Nguyễn Văn Thế Q, sinh ngày 13/9/2009.Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Lương Thị C có nguyện vọng được nuôi cả hai người con và không yêu cầu anh Nguyễn Văn C cấp dưỡng nuôi con.Ý kiến anh Nguyễn Văn C có nguyện vọng được nuôi con chung là Nguyễn Văn Thế Q, sinh ngày 13/9/2009.Hội đồng xét xử xét thấy chị C, anh C đều làm nghề nông nghiệp, thu nhập thấp vì vậy giao cho mỗi người nuôi 01người con là đảm bảo được quyền lợi mọi mặt của con, đúng với quy định tại các Điều 81;82;83 Luật hôn nhân và gia đình. Chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn C không ai phải cấp dưỡng nuôi con.
[4]Về chia tài sản và nợ: Chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn C không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[5] Về án phí: Chị Lương Thị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Xét thấy ý kiến phát biểu tại phiên tòa của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng và việc đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật để giải quyết nội dung vụ án là có căn cứ, đúng pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:
Về hôn nhân: Cho chị Lương Thị C được ly hôn anh Nguyễn Văn C.
Về nuôi con chung: Giao con chung là Nguyễn Thị Thùy T, sinh ngày 13/01/2011 cho chị Lương Thị C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Giao con chung là Nguyễn Văn Thế Q, sinh ngày 13/9/2009 cho anh Nguyễn Văn C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn C không ai phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Về án phí: Chị Lương Thị C 300.000(Ba trăm ngàn) hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000(Ba trăm ngàn) đồng 0001372 ngày 06/3/2018 , tỉnh Nghệ An.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 63/2018/HNGĐ-ST ngày 18/04/2018 về tranh chấp về hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 63/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/04/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về