Bản án 63/2018/HNGĐ-ST ngày 15/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 63/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 289/2018/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H; ĐKHKTT: Thôn D, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng; cư trú tại Thôn T, xã Đ, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng D; ĐKHKTT: Thôn D, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng. Hiện nay anh Nguyễn Trọng D đang chấp hành án tại Phân trại II, trại giam X, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa (có yêu cầu giải quyết vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, tại các bản tự khai và quá trình tố tụng nguyên đơn là chị Hoàng Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Trọng D kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng vào năm 2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sống tại gia đình anh D ở thôn D, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc vui vẻ được một thời gian ngắn đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không có sự tin tưởng lẫn nhau, anh D không quan tâm đến gia đình vợ con. Mâu thuẫn đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên chị đã về nhà mẹ đẻ tại thôn T, xã Đ, huyện A sống từ năm 2013, chị và anh D đã sống ly thân, không ai còn quan tâm và trách nhiệm với nhau nữa. Năm 2013 anh Nguyễn Trọng D vi phạm pháp luật và đã bị xử phạt 08 năm tù. Hiện nay anh Nguyễn Trọng D đang chấp hành án tại trại giam X, huyện T, thành phố Hải Phòng. Nay chị xét thấy không còn tình cảm với anh D, mâu thuẫn hai bên đã trầm trọng không thể khắc phục được, vợ chồng không thể chung sống đoàn tụ với nhau, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Trọng D.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Trọng D có 01 con chung là Nguyễn Yến N, sinh ngày 20 tháng 5 năm 2013. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị.

Về tài sản chung: Chị và anh Nguyễn Trọng D không có tài sản chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 24 tháng 9 năm 2018 bị đơn anh Nguyễn Trọng D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Hoàng Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng vào năm 2012. Sau khi kết hôn vợ chồng anh sống tại gia đình nhà anh ở thôn D, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc vui vẻ, chỉ có va chạm, cãi vã nhau nhưng không lớn. Đến tháng 6 năm 2013 anh vi phạm pháp luật và phải chấp hành án tại trại giam X, huyện T thì chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Nay chị H có đơn xin ly hôn với anh, anh cũng đồng ý.

Về con chung: Anh và chị Hoàng Thị H có 01 con chung là Nguyễn Yến N, sinh ngày 20 tháng 5 năm 2013. Ly hôn anh có quan điểm do hiện nay anh đang ở Trại tạm giam không có điều kiện để chăm sóc con nên đề nghị Tòa án giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con chung anh và chị H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh và chị Hoàng Thị H không có tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự: Xét xử tập thể, công khai, trình tự thủ tục tiến hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đúng quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại các Điều 70, 71,72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào yêu cầu của đương sự, các tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp và do Tòa án thu thập, lời khai của đương sự có trong hồ sơ vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; Các Điều 28, 147, 70, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Các điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: Xử cho chị Hoàng Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Trọng D; Về con chung: Xử giao con chung Nguyễn Yến N, sinh ngày 20 tháng 5 năm 2013 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn, về cấp dưỡng nuôi con chung, không xem xét giải quyết. Khi nào chị H có yêu cầu Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án khác. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Xét về việc vắng mặt của nguyên đơn chị Hoàng Thị H và bị đơn anh Nguyễn Trọng D:

Đối với chị Hoàng Thị H: Quá trình giải quyết vụ án, ngày 11 tháng 9 năm 2018 chị Hoàng Thị H có đơn xin giải quyết vắng mặt tại phiên tòa. Do vậy, Hội đồng xét xử, căn cứ vào khoản 1, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Hoàng Thị H.

Đối với anh Nguyễn Trọng D: Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã tiến hành các trình tự giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Trọng D có quan điểm xin vắng mặt tại phiên tòa và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Nguyễn Trọng D

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, chứng cứ do đương sự cung cấp và do Toà án thu thập đã có đủ cơ sở xác định lời khai của chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Trọng D về thời gian, điều kiện kết hôn là đúng sự thật. Quá trình chung sống hai bên phát sinh mâu thuẫn và mâu thuẫn vợ chồng được thể hiện ở việc vợ chồng bất hòa căng thẳng dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không có sự tin tưởng lẫn nhau. Mặc dù mâu thuẫn đã được hai bên gia đình hòa giải giúp đỡ nhưng không khắc phục được. Đến năm 2013 anh Nguyễn Trọng D vi phạm pháp luật và đã bị xử phạt 08 năm tù. Hiện anh Nguyễn Trọng D đang chấp hành án tại Trại giam X, Hải Phòng. Quá trình giải quyết vụ án chị H và anh D đều có quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết cho hai bên được ly hôn.

Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Trọng D đã kéo dài, mâu thuẫn của vợ chồng đã trầm trọng không thể khắc phục đoàn tụ được, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu xin ly hôn của chị H và anh D đưa ra là tự nguyện, có căn cứ, cần được chấp nhận để giải phóng cho hai bên khỏi sự ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [3] Về con chung: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Trọng D có 01 con chung là Nguyễn Yến N, sinh ngày 20 tháng 5 năm 2013. Việc nuôi dưỡng con chung là quyền đồng thời là nghĩa vụ của cha mẹ. Quá trình giải quyết vụ án chị H và anh D có quan điểm thống nhất sau khi vợ chồng ly hôn con chung sẽ giao cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con chung anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét quan điểm của hai bên đưa ra là tự nguyện, không trái pháp luật nên chấp nhận. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con chung Nguyễn Yến N, sinh ngày 20 tháng 5 năm 2013 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn, về cấp dưỡng nuôi con chung, Tòa án không xem xét giải quyết. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 16 tháng 10 năm 2018 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

 [4] Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị H và an Nguyễn Trọng D xác định trong quá trình chung sống anh chị không có tài sản chung nên không yêu cầu Toà án xem xét giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét về tài sản chung.

 [5] Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 70, 147, Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 39 Bộ luật dân sự;

Căn cứ vào các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 6, Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Quốc hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Trọng D.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Yến N, sinh ngày 20 tháng 5 năm 2013 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn, về cấp dưỡng nuôi con chung chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Trọng D tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 16 tháng 10 năm 2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Chị Hoàng Thị H đã nộp đủ số tiền án phí ly hôn sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (Biên lai thu tiền số 0015289 ngày 20 tháng 8 năm 2018) nên không phải nộp nữa.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2018/HNGĐ-ST ngày 15/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:63/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;