Bản án 63/2018/HNGĐ-ST ngày 05/09/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 63/2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 05 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, Tòa án nhân dân thành phố C mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 141/2018/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2018 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự::

Nguyên đơn: Chị Phan Thị Kiều D - sinh năm: 1989

Nơi cư trú: Tổ dân phố L, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa.

Nơi ở hiện nay: Tổ dân phố N, phường B, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa(Có mặt tại phiên tòa).

Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân S - sinh năm: 1984

Nơi cư trú: Tổ dân phố L, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/5/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Phan Thị Kiều D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Xuân S tự nguyện tìm hiểu và kết hôn vào năm 2014, được ủy ban nhân dân phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 79, quyển số 01 ngày 27/10/2014.

Cuộc sống chung của anh chị hạnh phúc được khoảng 02 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh S thường xuyên tụ tập bạn bè ăn nhậu về khuya, không chăm lo gia đình và ngoại tình với nhiều cô gái khác. Chị đã khuyên can anh S nhưng anh S không tiếp thu, thay đổi.

Nay mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn nên chị kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S. -

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Xuân S có một con chung là Nguyễn Kiều A, sinh ngày 08/8/2016. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Kiều A và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Chị và anh Nguyễn Xuân S không có nợ chung.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Khánh Hòa phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng quy định của pháp luật; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án không có gì sai phạm; việc chấp hành pháp luật của bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án vi phạm Điều 70, Điều 72 và Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Khánh Hòa về việc giải quyết vụ án: Chấn nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Phan Thị Kiều D.

* Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:

- Nguyên đơn chị Phan Thị Kiều D đã giao nộp: Giấy chứng nhận kết hôn (bản gốc); chứng minh nhân dân Phan Thị Kiều D, Nguyễn Xuân S (bản sao); Giấy khai sinh Nguyễn kiều A (bản trích lục); Sổ hộ khẩu chủ hộ mang tên Nguyễn Xuân S (bản sao).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]. Về tố tụng: Chị Phan Thị Kiều D xin ly hôn anh Nguyễn Xuân S. Yêu cầu của chị D thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn anh Nguyễn Xuân s đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình vắng mặt không tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa. Căn cứ vào các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Xuân S.

 [2]. Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị Kiều D và anh Nguyễn Xuân S tự nguyện kết hôn và được ủy ban nhân dân phường C, thành phố C (nay là thành phố C) tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 79, quyển số 01 ngày 27/10/2014 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Chị Phan Thị Kiều D cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do anh S không lo tu chí làm ăn, chăm sóc gia đình mà tụ tập ăn nhậu, ngoại tình. Anh S cố tình không đến Tòa án tham gia hòa giải và không đưa ra biện pháp nào hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng thể hiện anh không có thiện chí muốn hòa giải.

Xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Phan Thị Kiều D yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Xuân S là phù hợp với Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về con chung: Chị Phan Thị Kiều D và anh Nguyễn Xuân S có một conchung là Nguyễn Kiều A, sinh ngày 08/8/2016.

Xét thấy: Khi cha mẹ ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cũng phải nhằm đảm bảo cho con sự phát triển tốt nhất cả về thể chất lẫn tinh thần và phù hợp với nguyện vọng của con. Cháu Kiều A là con gái, còn rất nhỏ (dưới 36 tháng tuổi) hiện do chị D nuôi dưỡng, chăm sóc. Do đó, yêu cầu của chị D được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Kiều A là có cơ sở, phù hợp với quy định điều 81 Luật Hôn nhân gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phan Thị Kiều D về việc không yêu cầu cầu anh Nguyễn Xuân S cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Phan Thị Kiều D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

 [3]. Về án phí: Chị Phan Thị Kiều D phải nộp án phí Dân sự sơ thẩm về“Ly hôn” theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 28, Điều 35, Điều 227, Điều 228, Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 82, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn

 [1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị Kiều D được ly hôn anh Nguyễn Xuân S.

 [2]. Về con chung: Chị Phan Thị Kiều D được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Nguyễn Kiều A, sinh ngày 08/8/2016

Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phan Thị Kiều D về việc không yêu cầu anh Nguyễn Xuân S phải cấp dưỡng nuôi con.

* Vì lợi ích các con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc con chung; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

 [3]. Về tài sản chung: Chị Phan Thị Kiều D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không xét.

 [4]. Về án phí: Chị Phan Thị Kiều D phải nộp 300.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm về “Ly hôn” nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0012336 ngày 28/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố C. Như vậy, chị Phan Thị Kiều D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Chị Phan Thị Kiều D có quyền kháng cáo bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Anh Nguyễn Xuân S có quyền kháng cáo bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc từ ngày niêm yết bản án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2018/HNGĐ-ST ngày 05/09/2018 về ly hôn

Số hiệu:63/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;